Trần Văn Ngà: Vùng 4 Chiến Thuật Kiêu Hùng
By Hoang Hieu • Feb 8th, 2009 • Category: Tài Liệu Việt Nam & ngoại quốcTRANG QUÂN SỬ CŨ:
BÍ ẨN VỀ TRUNG TƯỚNG ĐẶNG VĂN QUANG
VÙNG 4 CHIẾN THUẬT KIÊU HÙNG
Hồi Ký – Trần Văn Ngà
ĐẠI CƯƠNG
Trước ngày 30 tháng 4 năm 1975, từ Bến Hải, vĩ tuyến 17, miền bắc của
lãnh thổ Việt Nam Cộng Hòa, xuôi nam, đến miền cuối Việt, mũi Cà Mau,
được phân định thành 4 Vùng Chiến Thuật và sau này đổi thành 4 Quân Khu
về mặt quân sự cũng như phương diện hành chánh, trực thuộc chánh quyền
trung ương.
Mỗi Vùng Chiến Thuật hay Quân Khu chỉ huy về mặt quân sự, bên cạnh có
Tòa Đại Biểu Chánh Phủ quản trị về mặt hành chánh, đặt các tỉnh trong
vùng vào trách nhiệm của Vùng Chiến Thuật (Quân Khu) gọi là Tiểu khu.
Vị Tư Lệnh Quân Khu hay Vùng Chiến Thuật kiêm nhiệm chức trách Đại Biểu
Chánh Phủ vì là trong thời chiến. Các vị Tiểu Khu Trưởng cũng kiêm
nhiệm chức vụ Tỉnh Trưởng và cấp quận – Chi khu cũng có Chi Khu Trưởng
kiêm nhiệm Quận Trưởng. Ở cấp xã cũng có Phân Chi Khu Trưởng, nhưng Xã
Trưởng lại do dân bầu.
ĐỊA LÝ – THỔ NHƯỠNG
Trong phạm vi bài này, tôi chỉ đề cập đến các tỉnh Miền Tây, vùng đồng
bằng sông Cửu Long còn gọi là Vùng 4 Chiến Thuật hay Quân Khu 4, một
thời vang danh kiêu hùng.
Thị Xã Cần Thơ được mệnh danh là Thủ Đô của miền Tây – Nam Bộ nên có
tên gọi là Tây Đô. Sở dĩ có tên gọi thân thương này vì ở đây có bản
doanh Bộ Tư Lệnh Quân Đoàn 4 & Vùng 4 Chiến Thuật và Tòa Đại Biếu
Chánh Phủ Miền Tây với các Nha Sở trực thuộc. Miền Tây là vùng đất có
nhiều phù sa, trù phú nhất, trung tâm điểm của nền kinh tế nông nghiệp
phát triển và nghề nuôi cá nước ngọt cho đến ngày nay và tương lai.
Phía Bắc của Vùng 4 Chiến Thuật giáp với địa giới Vùng 3 Chiến Thuật.
Phía Đông, kể từ bờ biển của tỉnh Gò Công, chạy dài qua nhiều tỉnh Định
Tường, Kiến Hòa, Vĩnh Bình, Ba Xuyên, Bạc Liêu, An Xuyên (mũi Cà Mau),
bờ biển tiếp tục chạy về hướng Tây Nam đến Hà Tiên. Một bờ biển rất dài
làm giàu cho ngành nuôi bắt hải sản ở biển và các loài thuỷ tộc ở vùng
nước lợ. Từ phía Tây, Tây Nam, Tây Bắc giáp với nước láng giềng
Kamphuchia.
Tóm lại, Vùng 4 Chiến Thuật – đồng bằng sông Cửu Long là vùng đất mới,
màu mỡ, phì nhiêu nhất Việt Nam, thế mạnh về nông nghiệp và nuôi bắt
thủy sản với nước mặn, nước lợ và nước ngọt quanh năm có thể đủ cung
ứng cái ăn cho cả nước.
Sự hình thành vùng đất màu mỡ của miền đồng bằng Nam Bộ, nhờ con sông
Cửu Long từ Biển Hồ (Tonlé Sap) của xứ Chùa Tháp chảy qua biên giới
Việt Nam ở tỉnh địa đầu Châu Đốc với 2 nhánh gọi là sông Tiền và sông
Hậu. còn gọi là Tiền Giang và Hậu Giang. Hai con sông chánh Tiền Giang
và Hậu Giang, nước chảy ra biển Đông (Nam Hải) với 9 cửa nên gọi là Cửu
Long Giang: cửa Đại, Tiểu, Ba Lai, Hàm Luông, Cổ Chiên, Cung Hậu, Định
An, Bassac, Tranh Đề…(Tôi moi trong trí nhớ khi còn học tiểu học cách
nay hơn 60 năm). Chính sông Tiền và sông Hậu tiếp đưa đất phù sa từ
thượng nguồn sông Mékong (Cửu Long), theo dòng nước chảy đổ xuống từ
tháng 5 đến tháng 10 âm lịch (cũng là mùa mưa và lũ lụt) xuôi về đồng
bằng miền Tây Nam Bộ tạo thành một thổ nhưỡng màu mỡ phì nhiêu tuyệt
vời do thiên nhiên ưu đải ban tặng. Mỗi năm mũi Cà Mau được trường dài
thêm ra biển.
Khi vào địa giới tỉnh Châu Đốc, sông Tiền chảy qua quận Tân Châu để
xuôi ra biển qua các tỉnh Kiến Phong (Cao Lãnh), Sa Đéc, Vĩnh Long,
Vĩnh Bình (Trà Vinh), Kiến Hòa (Bến Tre)… Sông Hậu chảy ngang qua tỉnh
lỵ Châu Đốc từ 2 quận An Phú và Châu Phú, xuôi dòng về tỉnh An Giang
(Long Xuyên), Phong Dinh (Cần Thơ), Vĩnh Long, Ba Xuyên (Sóc Trăng),
Vĩnh Bình… Hai con sông Tiền và Hậu, tạo ra hàng chục phụ lưu lớn và
nối liền hàng trăm phụ lưu nhò cũng như những kinh đào kết thành một
mạng lưới đường thủy chằn chịt, sông nước hữu tình của khắp miền Tây
Nam Bộ với 16 tỉnh và 92 quận…
VỀ MẶT QUÂN SỰ
Đồng bằng sông Cửu Long tức là Vùng 4 Chiến Thuật, chia thành 3 khu
chiến có 3 Sư Đoàn Bộ Binh chính quy QLVNCH trách nhiệm. Khu Chiến
Thuật Tiền Giang từ ranh giới của tỉnh Long An (V3CT) chạy xuống các
tỉnh Định Tường (Mỹ Tho), Gò Công, Kiến Hòa (Bến Tre), Kiến Tường do Sư
Đoàn 7 Bộ Binh trách nhiệm về an ninh lãnh thổ. Bộ Tư Lệnh SĐ 7 đặt tại
Thị xã Mỹ Tho, sau chuyển qua Căn cứ Đồng Tâm, do SĐ 9 BB Mỹ bàn giao
lại cho QLVNCH. Đây là các tỉnh tả ngạn của sông Tiền từ Biển Hồ (Tonlé
Sap) ở xứ Chùa Tháp chảy xuống. Hữu ngạn sông Tiền có các tỉnh: Kiến
Phong (Cao Lãnh), Sa Đéc, Vĩnh Long, Vĩnh Bình (Trà Vinh). Bắc Mỹ Thuận
còn gọi Bến phà Mỹ Thuận (nay thành cầu Mỹ Thuận) nằm trên thủy lộ sông
Tiền, bến phà bên trái (nghĩa là từ Thủ Đô Sài Gòn đi xuống) thuộc tỉnh
Định Tường, bên phải thuộc tỉnh Sa Đéc và Vĩnh Long. Các tỉnh ở hữu
ngạn sông Tiền tức là các tiểu khu về mặt quân sự thuộc Khu 41 Chiến
Thuật, đặt thuộc quyền trách nhiệm của Sư Đoàn 9 BB, bản doanh tại Thị
xã Sa Đéc.
Các tỉnh bị ảnh hưởng trực tiếp của con sông Hậu mà người Cần Thơ
thường gọi theo người Pháp là sông Bassac. Khu 42 Chiến Thuật của vùng
sông Hậu này, gồm các Tiểu khu Phong Dinh, Ba Xuyên, Chương Thiện, Kiên
Giang (Rạch Giá), Bạc Liêu và An Xuyên (Cà Mau). Hai tỉnh Châu Đốc và
An Giang có lúc thuộc Khu 42 Chiến Thuật, có lúc thuộc Biệt Khu 44 hay
Khu 41 Chiến Thuật.
Hồi thời còn là Vùng Chiến Thuật, V4CT có thêm Biệt Khu 44 (tương đương
với Khu chiến thuật – Sư đoàn), bản doanh đặt tại Cao Lãnh (tỉnh Kiến
Phong) bao gồm các tỉnh Kiến Phong, Kiến Tường, Châu Đốc (các tỉnh có
biên giới với nước láng giềng Kampuchia nên có rất nhiều trại Lực Lượng
Đặc Biệt – Trại Biệt Kích, thiết đặt tại các vùng biên cương này). Mỗi
trại Biệt Kích gọi là A, nhiều trại A trong một khu vực trực thuộc B và
cấp cao hơn B, chỉ huy tổng quát ở cấp Vùng, gọi là C nên Vùng 4 Chiến
Thuật có C4 – LLĐB, bản doanh đặt ở sân bay Cần Thơ.
Biệt Khu 44 có 5 vị Tư Lệnh tạo dấu ấn khó quên đối với những chiến sĩ
phục vụ ở khu vực trọng yếu này, có cùng biên giới với xứ Chùa Tháp –
Kampuchia.. Vị Tư Lệnh thứ nhứt là Đại Tá Nguyễn Hữu Hạnh có đến 16 đứa
con được Tòa Thánh Vatican vinh danh (cựu Tham Mưu Trưởng QĐ4), khi làm
Tư Lệnh Biệt Khu 44 được vinh thăng Chuẩn Tướng và sau ngày 30.4.75,
Chuẩn Tướng Hạnh lộ nguyên hình là Việt gian cộng sản nằm vùng. Giờ thứ
25 của ngày 30.4.75, Chuẩn Tướng Nguyễn Hữu Hạnh được cử làm quyền Tổng
Tham Mưu Trưởng Bộ Tổng Tham Mưu khi Trung Tướng Vĩnh Lộc, vị Tổng Tham
Mưu Trưởng cuối cùng của QLVNCH lên máy bay đi tỵ nạn. Vị Tư Lệnh thứ
hai là Đại Tá Phạm Văn Phú được vinh thăng Chuẩn Tướng . Khi thuyên
chuyển về Vùng I Chiến Thuật, Chuẩn Tướng Phú làm Tư Lệnh Sư Đoàn 1 Bộ
Binh,. Sau lên Thiếu Tướng được bổ nhiệm chức vụ Tư Lệnh Quân Đoàn 2
& Vùng 2 Chiến Thuật cho đến ngày V2CT “di tản chiến thuật” bi thảm
và Thiếu Tướng Phạm Văn Phú tuẫn tiết chết vào ngày đen tối của chính
thể VNCH 30.4.75. Vị Đại Tá Tư Lệnh thứ ba là Đại Tá Võ Hữu Hạnh (thời
gian cầm quyền rất ngắn nên không được đeo sao như 2 vị tiền nhiệm) ,
Vị Tư Lệnh thứ tư, Đại Tá Trần Văn Hai, nguyên Tư Lệnh Cảnh Sát Quốc
Gia, vinh thăng Chuẩn Tướng và đơn vị cuối cùng, Tư Lệnh Sư Đoàn 7 BB
và tuẩn tiết chết vì sự đầu hàng của Đại Tướng Dương Văn Minh, ngày
30.4.1975. Người Tư Lệnh thứ năm, cũng là vị Tư Lệnh cuối cùng của
BK44, nổi tiếng là mê đào hát BT, bị vợ ghen tưng bừng hoa lá làm hư
bột hư đường nên không bắt được 1 sao như 3 vị Tư Lệnh tiền nhiệm. Tiếc
thay! Cái khổ của người sĩ quan mê đào hát làm tắt nghẽn con đường hoạn
lộ đang mở rộng thênh thang ở phía trước vì ông Đại Tá Tư Lệnh này
thuộc gia đình qúy phái “hoàng tộc” đang “trị vì thiên hạ”.
Tại Cần Thơ, có Bộ Tư Lệnh Quân Đoàn 4 và Vùng 4 Chiến Thuật cũng như Toà Đại Biểu Chánh Phủ Miền Tây đặt bản doanh ở đây.
Tôi từng làm sĩ quan Thông tin Báo chí của đại đơn vị này từ cuối năm
63 đến đầu năm 1970, trải qua thời 7 vị tướng làm Tư Lệnh, trong đó có
Trung Tướng Nguyễn Văn Thiệu, sau là Tổng Thống Việt Nam Cộng Hòa với 2
nhiệm kỳ.
NHỮNG NĂM THÁNG VANG DANH VÙNG 4 CHIẾN THUẬT
Sau cuộc lật đổ nền Đệ nhất Cộng hòa 1.11.1963, Đại tá Bùi Hữu Nhơn, Tư
Lệnh Sư Đoàn 21 BB vinh thăng Thiếu Tướng, về đảm trách Tư Lệnh Quân
Khu 5 (Quân đoàn 4 &V4CT sau này) thay thế Thiếu Tướng Huỳnh Văn
Cao?. Ở chức vụ này, Thiếu Tướng Bùi Hữu Nhơn đảm nhận rất ngắn, chừng
1 vài tháng và Thiếu Tướng Nhơn được điều về Trung ương – Sàigòn. Trong
vòng 1 năm sau, Thiếu Tướng Bùi Hữu Nhơn bị giải ngũ vì không cùng phe
cánh với các vị tướng khác đang nắm quyền lãnh đạo đất nước. Hiện cựu
Thiếu Tướng Bùi Hữu Nhơn đang cư ngụ tại California. Trung Tá Cao Hảo
Hớn Tư Lệnh Phó Sư đoàn 21 BB vinh thăng Đại tá giữ chức Tư Lệnh SĐ.
21BB (thay Thiếu Tướng Bùi Hữu Nhơn). Giai đoạn này, tôi đang phục vụ
tại BCH Trung đoàn 33 BB, Bộ Chỉ Huy Hành Quân của Trung đoàn đóng tại
Chà Là (Giá Ngựa) thuộc vùng U Minh Hạ, tỉnh An Xuyên (Cà Mau).
Đây là thời điểm. lên lon thăng chức và thay đổi cấp chỉ huy đơn vị
xoành xạch vì có nhiều cuộc “chỉnh lý, biểu dương lực lượng – xuống
đường – biểu tình”, thay đổi cấp lãnh đạo, chỉ huy…như ăn cơm bữa tại
trung ương Sài Gòn và tại các đại đơn vị.
TRUNG TƯỚNG NGUYỄN HỮU CÓ
Trước ngày đảo chánh 1.11.63, Đại Tá Nguyễn Hữu Có hình như giữ chức vụ
Tư Lệnh Phó Quân Đoàn 3 do Thiếu Tướng Tôn Thất Đính làm Tư Lệnh và ông
là một trong 2 vị Đại Tá (Đại Tá Nguyễn Văn Thiệu Tư Lệnh Sư Đoàn 5 Bộ
Binh) nòng cốt cùng với các vị tướng lãnh khác trong cuộc lật đổ nền Đệ
Nhất Cộng Hòa.
Sau cuộc đảo chánh, Đại Tá Có, Đại Tá Thiệu được thăng lên Thiếu Tướng
2 sao và giữ những chức vụ cao cấp trong Hội Đồng Tướng Lãnh tại trung
ương. Thiếu Tướng Có được phân công về nắm chức Tư Lệnh Quân Đoàn 4
(Quân Khu 5 ở Cần Thơ mà Đại Tá Trần Thiện Khiêm từng làm Tư Lệnh đem
quân về cứu nguy Tổng Thống Ngô Đình Diệm trong cuộc đảo chánh hụt ngày
11.11.60 do phe Đại Tá Nguyễn Chánh Thi cầm đầu nên Đại Tá Khiêm được
vinh thăng Thiếu Tướng trong chiến công này. Tướng Khiêm được đổi về
trung ương đảm nhận chức vụ cao hơn, Tham Mưu Trưởng Bộ Tổng Tham Mưu
và cũng là cái họa sau này cho Tổng Thống Ngô Đình Diệm, Tướng Khiêm –
một người chủ xướng quan trọng trong cuộc đảo chánh thành công
1.11.63). Trung Tướng Có về Cần thơ sau Thiếu Tướng Bùi Hữu Nhơn, cũng
một thời gian ngắn và được thuyên chuyển về trung ương, giữ chức vụ cao
hơn. Có thời quyền lực cao nhất của chánh thể VNCH với 3 nhân vật gọi
là “chóp bu” mà CSBV thường rêu rao là Thiệu-Kỳ-Có. Tôi ở dưới quyền
của vị Tư Lệnh Nguyễn Hữu Có một thời gian rất ngắn, chừng hơn 1 tuần.
Được biết Trung Tướng Nguyễn Hữu Có tốt nghiệp Khóa 1 Đập Đá tức Khóa
Quốc Trưởng Bảo Đại năm 1948 tại Huế. Thiếu Úy Nguyễn Hữu Có đổ Thủ
khoa khóa này, ông nguyên là thiếu sinh quân được tuyển đi học. Sau 6
tháng thụ huấn tại đây, 10 sĩ quan đỗ đầu được Quân đội Pháp đưa sang
Pháp học tiếp 1 năm tại trường École d’Application d’Infanterie ở tỉnh
Bretagne. Mười sĩ quan được tuyển chọn theo học khóa đặc biệt đó gồm có
các Thiếu Úy: Nguyễn Hữu Có, Nguyễn Văn Thiệu, Đặng Văn Quang, Tôn Thất
Đính, Nguyễn Văn Chuân…Trong khóa 1 Đập Đá, Thiếu Úy trẻ tuổi nhất là
Đặng Văn Quang vì ông sinh năm 1929, khi tốt nghiệp Thiếu Úy tại Huế
năm 1948 chưa tròn 19 tuổi. Các vị tốt nghiệp Khóa Quốc Trưởng Bảo Đại
đầu tiên hầu hết đều nắm giữ những chức vụ quan trong trong guồng máy
lãnh đạo quốc gia nền Đệ Nhị Cộng Hòa.
TRUNG TƯỚNG DƯƠNG VĂN ĐỨC
Tiếp theo vị Tư Lệnh tiền nhiệm là Trung Tướng Dương Văn Đức. Đây là
một sĩ quan cấp tướng làm việc nhiều hơn nói, gương mặt vị tướng này
lầm lì, uy nghiêm, thuộc cấp kính sợ…với cái liếc mắt nhìn thuộc cấp
rất “có thần” của một cấp chỉ huy.
Trong suốt thời gian tôi làm sĩ quan Thông Tin & Báo Chí QĐ4 &
V4CT (lúc đó Ban TTBC chưa có quy chế tổ chức rõ ràng, trực thuộc Phòng
5 – CTTL, sau này trực thuộc Khối CTCT) thường làm việc trực tiếp với
quý vị Tư Lệnh hoặc qua trung gian của vị Tham Mưu Trưởng hoặc Tham Mưu
Phó Chiến Tranh Chính Trị. Nhưng, tôi thường tháp tùng cùng ngồi trên
chiếc trực thăng chỉ huy của vị Tư Lệnh QĐ4 & V4CT làm nhiệm vụ của
sĩ quan thông tin báo chí ghi nhận, phổ biến tin tức và hình ảnh.
Trong thời gian gần 7 năm với chức vụ nóng hổi này vì gần “Mặt Trời”,
tôi chưa gặp một ông tướng thứ hai có cái uy như Trung Tướng Dương Văn
Đức. Tôi cũng chưa hề thấy ông tướng Đức có một nụ cười với ai dù là
khi đang dự một bữa tiệc tiếp tân của tỉnh hay đơn vị quân sự nào đó.
Tướng Đức miệt mài làm việc, không kể thời gian, ít tiếp xúc với thuộc
cấp khi không có chuyện thật cần thiết.
Chính thời điểm làm Tư Lệnh Quân Đoàn 4 & Vùng 4 Chiến Thuật, Trung
Tướng Dương Văn Đức là người đầu tiên có kế hoạch “thu phục nhân tâm”,
thành lập các Đại đội, Tiểu đoàn địa phương quy tụ các cựu chiến sĩ của
giáo phái Hòa Hảo ở các tỉnh Phong Dinh, Vĩnh Long, Sa Đéc. Châu Đốc,
An Giang, Kiến Phong, Kiến Tường…và các cựu chiến sĩ đạo Cao Đài ở An
Xuyên, Bạc Liêu, Kiên Giang …có tinh thần chống cộng cao độ.
Với tư cách là sĩ quan thông tin báo chí, tôi thường cùng với sĩ quan
tùy viên của vị Tư Lệnh đi đây đi đó với “Mặt Trời” nên tôi cũng hiểu
ít nhiều cá tánh của mỗi vị.
Thời Trung Tướng Dương Văn Đức làm Tư Lệnh Quân Đoàn 4 & Vùng 4
Chiến Thuật, bổng dưng ông tướng “nổi hứng” hay ai thúc đẩy làm cuộc
biểu dương lực lượng, đưa quân về Thủ Đô Sài Gòn (sau cuộc chỉnh lý của
Trung Tướng – Đại Tướng Nguyễn Khánh). Đại quân của QĐ4 tiến tới gần
Phú Lâm thì dừng lại, theo lẽ, thế mạnh của QĐ4 lúc bấy giờ và trong
Thủ Đô đã có đơn vị nội ứng sẽ làm chủ tình hình một cách dễ dàng và hạ
bệ những vị tướng đang nắm quyền trong tầm tay. Nhưng, Trung Tướng Đức
không có cơ duyên làm nên chuyện lớn (tốt hay xấu hơn cho đất nước?),
vì có sứ giả ở Sài Gòn bay xuống (hình như là Tướng Nguyễn Cao Kỳ) thảo
luận, điều đình với điều kiện gì đó, ông Tướng Đức ra lệnh cho các đơn
vị cơ hữu của QĐ4 lui binh về vị trí cũ, nghĩa là rút lui về Vùng 4
Chiến Thuật. Có lẽ, thâm tâm của Tướng Đức tin rằng qua cuộc điều đình
thỏa thuận ở Phú Lâm, ông sẽ trở về Cần Thơ làm việc lại một cách bằng
an, nghĩa là chức vụ Tư Lệnh QĐ4 & V4CT không vuột khỏi tầm tay
ông. Nhưng bé cái lầm tai hại, ông Tướng rất đáng thương của chúng ta
vì luôn có tinh thần kỷ luật của một quân nhân gương mẫu và đúng là ông
Tướng võ biền được “mời” về Sài Gòn và ông ngoan ngoãn tuân lệnh thượng
cấp. Sau đó, ông bị bắt tạm giam và đưa ra tòa án quân sự xét xử chỉ bị
giải ngũ (không nhớ rõ có bị lột lon và bao nhiêu ngày trọng cấm như
đàn em của Tướng Đức?). Có lẽ vì uất hận, thua trí người khác, vốn đàn
em của ông, làm ông Tướng Dương Văn Đức trở thành một người mất trí sau
này. Đến khi CSBV cưỡng chiếm miền Nam, thật bất hạnh cho vị Tướng mà
tôi kính mến nhất, Trung Tướng Dương Văn Đức cũng bị bắt đi tù cải tạo
và khi được thả ra, không bao lâu sau, ông chết tại quê nhà trong âm
thầm lặng lẽ.
Cuộc đời của Trung Tướng Dương Văn Đức có thể tóm gọn, một cấp huy có
tài nhưng bất phùng thời. Dưới thời Đệ Nhất Cộng Hòa, ông thăng quan
tiến chức rất nhanh và vì tính bộc trực và thiếu chánh trị nên ông bị
Thủ Tướng (Tổng Thống) Ngô Đình Diệm không cho Thiếu Tướng Dương Văn
Đức nắm binh quyền nữa mà được “cất nhắc” qua ngành ngoại giao với chức
vụ Đại Sứ ở Nam Triều Tiên? Vào ngành ngoại giao, làm việc ở ngoại quốc
nên ông Tướng có vợ là người Đức. Khi cuộc đảo chánh 1.11.1963 thành
công, Thiếu Tướng Dương Văn Đức cũng được vinh thăng 1 cấp lên Trung
Tướng và cuộc đời binh nghiệp của ông chấm dứt bi đát với chức vụ cuối
cùng Tư Lệnh Quân Đoàn 4 & Vùng 4 Chiến Thuật.
TRUNG TƯỚNG NGUYỄN VĂN THIỆU
Khi Trung Tướng Nguyễn Văn Thiệu về Vùng 4 Chiến Thuật thay thế Trung
Tướng Dương Văn Đức bị tước hết binh quyền và giải ngũ, lúc đó ông còn
mang lon Thiếu Tướng 2 sao và Trung Tướng Nguyễn Khánh gắn thêm 1 sao
nữa. Lúc bấy giờ quyền bính điều hành, lãnh đạo quốc gia do Trung Tướng
Nguyễn Khánh nắm hết.
Trung Tướng Nguyễn Văn Thiệu về giữ chức vụ Tư Lệnh Quân Đoàn 4 &
Vùng 4 Chiến Thuật kiêm Đại Biểu Chánh Phủ Miền Tây. Tại 3 khu chiến
thuật với 3 vị Đại Tá sau này đều được vinh thăng Trung Tương, có một
thời gian làm Tư Lệnh Quân Đoàn. Khu Chiến Thuật Tiền Giang với Sư Đoàn
7 BB trách nhiệm, Đại Tá Nguyễn Bảo Trị – Tư Lệnh, sau lên Trung Tướng
Tư Lệnh Quân Đoàn 3 & V3CT. Khu 41 Chiến Thuật, Đại Tá Vĩnh Lộc Tư
Lệnh và khi lên Trung Tướng giữ chức vụ Tư Lệnh Quân Đoàn 2 & V2CT.
Thời gian nắm chức Tư Lệnh SĐ9 BB, Chuẩn Tướng Vĩnh Lộc “dính” mối tình
với ca sĩ MH, kéo dài cho đến ngày nay. Khu 42 Chiến Thuật, Đại Tá Đặng
Văn Quang đang giữ chức Trưởng Phòng 4 Bộ Tổng Tham Mưu (quyền hành như
vị Tổng Cục Trưởng Tiếp Vận sau này) được bổ nhiệm về làm Tư Lệnh Sư
Đoàn 21 Bộ Binh thay thế Đại Tá Cao Hảo Hớn về trung ương nhận nhiệm vụ
mới. Đại Tá Đặng Văn Quang khi được thăng lên Chuẩn Tướng, sau lên
Thiếu Tướng về đảm nhận chức vụ Tư Lệnh QĐ4 & V4CT và sau đó, ông
được vinh thăng Trung Tướng năm 1965.
Xin mở dấu ngoặt ở đây. Chính Trung Tướng Nguyễn Khánh có sáng kiến tạo
thêm cấp tướng 1 sao gọi là Chuẩn Tướng và tôi biết rõ 3 vị Đại Tá Tư
Lệnh 3 sư đoàn thuộc QĐ4 là Đại Tá Đặng Văn Quang, Đại Tá Vĩnh Lộc, Đại
Tá Nguyễn Bảo Trị cùng với một số Đại Tá khác được gắn 1 sao tại Bạch
dinh ở Vũng Tàu năm 1964. Đây có thể nói dấu ấn quan trọng của Quân Đội
có cấp tướng mới 1 sao và các vị Đại Tá nói trên là những cấp chỉ huy
cấp sư đoàn như đồng loạt được phong lên hàng tướng đầu tiên. Cũng thời
Trung Tướng – Đại Tướng Nguyễn Khánh quy chế quân nhân hiện dịch và trừ
bị được ban hành và Tư Lệnh Sư Đoàn có công trạng sẽ được gắn 2 sao,
Quân Đoàn 3 sao, Lữ Đoàn Trưởng 1 sao, Trung Đoàn Trưởng 3 mai bạc,
Tiểu Đoàn Trương 2 mai bạc…(Đại Tướng Nguyễn Khánh đang cư ngụ tại
Sacramento).
Tôi nhớ mãi, ngạch quân nhân trừ bị khi tốt nghiệp (sau 1955 – từ khóa
6…) ra trường sĩ quan Thủ Đức mang lon Chuẩn Úy. Những sĩ quan ngành
Bảo An, sau này gọi là Địa Phương Quân cũng học tại trường sĩ quan Thủ
Đức như chủ lục quân được đeo lon Thiếu Úy dù không có bằng Trung học
ĐNC, chỉ có chứng chỉ tam nhị cũng tình nguyện thi tuyển vào được.
Trong khi đó từ Khóa 13 Thủ Đức (1962) trở về sau sinh viên sĩ quan chủ
lực quân phải có văn băng tối thiểu Tú Tài 1 và tương đương. Những
Chuẩn Úy từ khóa 6 đến khóa 13, có người mang lon 5-6 năm mà vẫn
chưa”tự động” lên Thiếu Úy. Với quy chế mới thời Tướng Khánh, cấp Chuẩn
Úy ra trường đúng 1 năm không vi phạm kỷ luật quan trọng đương nhiên
lên Thiếu Úy mà là Thiếu Úy tạm thời (nhiệm chức) và 1 năm sau mới lên
Thiếu Úy thực thụ. Như vậy, từ Chuẩn Úy mới ra trường, đúng 2 năm sau
lên Thiếu Úy thực thụ và 2 năm sau nữa được thăng Trung úy như bên
ngạch hiện dịch. Tất cả sĩ quan cấp Chuẩn Úy của Khóa 13 Thủ Đức đương
nhiên được đặc ân hưởng trọn vẹn quy chế mới mẻ này. Khóa 13 Thủ Đức ra
trường ngày 28.12.62 đến cuối năm 63 (sau cuộc đảo chánh 1.11.63) được
1 năm vài ngày, đương nhiên đeo 1 mai vàng và các khóa Thủ Đức trước
cũng đều lên lon Thiếu Úy và được hồi tố hường thâm niên cấp bậc.
Khi Trung Tướng Nguyễn Văn Thiệu về Vùng 4 Chiến Thuật gần cuối năm
1964, chiến trường vùng đồng bằng sông Cửu Long bắt đầu sôi động mà sôi
động nhất và cũng là lúc QLVNCH thu gặt nhiều chiến thắng vẻ vang nhất,
đó là thời Trung Tướng Đặng Văn Quang làm Tư Lệnh nối tiếp Trung Tướng
Nguyễn Văn Thiệu về trung ương nhận nhiệm vụ mới.
TRUNG TƯỚNG ĐẶNG VĂN QUANG
Những ai từng phục vụ trong các đơn vị thuộc Vùng 4 Chiến Thuật thời
gian 1964 – 65 – 66… có thể công nhận rằng, Trung Tướng Đặng Văn Quang
giữ chức vụ Tư Lệnh Quân Đoàn 4 & Vùng 4 Chiến Thuật kiêm Đại Biểu
Chánh Phủ Miền Tây rất “mát tay”, là thời điểm kiêu hùng nhất của quân
dân miền Tây, chiến thắng nối tiếp chiến thắng, an ninh lãnh thổ được
vững chắc nhất.
Với 3 sư đoàn bộ binh tinh nhuệ cùng các đơn vị Biệt Động Quân biệt
lập, các trại Lực Lượng Đặc Biệt biên phòng ở dọc theo biên giới từ Hà
Tiên qua Châu Đốc, Kiến Phong và Kiến Tường, trên 200 cây số làm rào
cản sự xâm nhập vũ khí, tiếp liệu và bộ đội chính quy CSBV xâm nhập qua
từ bên xứ Chùa Tháp – Kampuchia. Cũng thời Trung Tướng Đặng Văn Quang,
3 sư đoàn cơ hữu của QĐ4 : Sư Đoàn 7, 9, 21 Bộ Binh – bộ binh là hoàng
hậu của chiến trường như một vị tướng của quân đội Pháp đã nói. Các đơn
vị này đều tạo nhiều chiến thắng vẻ vang liên tục, đặt tên riêng các
cuộc hành quân cấp sư đoàn. Khu Chiên Tiền Giang với SĐ7BB, tên cuộc
hành quân là Tiền Giang (Tiền Giang 1,2,3…). Khu 41 Chiến Thuật với tên
cuộc hành quân của SĐ9BB là Cửu Long và SĐ21BB – Khu 42 Chiến Thuật với
tên gọi là Dân Chí.
Riêng Sư Đoàn 21 Bộ Binh, từ lúc Đại Tá Đặng Văn Quang về làm Tư Lệnh,
ông đã đặt tên Dân Chí cho các cuộc hành quân sư đoàn. Các cuộc hành
quân nhỏ cấp Tiểu khu và Trung đoàn cơ hữu của Khu 42 Chiến Thuật cũng
dùng tên Dân Chí và kèm theo TK là cấp tiểu khu và TRĐ ở cấp trung
đoàn…Vì vậy, khi Tướng Quang về Cần Thơ, ông đã ra lệnh 3 SĐ thuộc
quyền cũng đều có tên như nêu trên. Thời điểm này, Ban Thông Tin Báo
Chi của chúng tôi được cưng chìu nhất và đích thân Trung Tướng Quang
cho thêm nhiều phương tiện, thiết lập được 1 nhà in để in bán nguyệt
san Chiến Sĩ Miền Tây mà tôi là Tổng Thư Ký Tòa Soạn. Ban Thông Tin Báo
Chí được tăng cường thêm nhiều người có khả năng như nhà văn Nguyên Vũ
– Vũ Ngự Chiêu, nhà thơ Tô Thùy Yên – Đinh Thành Tiên, giáo sư triết:
Lê Văn Tấn – Nguyễn Văn Oánh (họ và chữ lót có thể sai), giáo sư Pháp
văn Phan Thông Hảo, kỷ sư Canh nông Nguyễn văn Hoàng, luật sư Võ Tứ
Cầu, Mai Hòa – một phóng viên chiến trường nổi tiếng, cơ hữu của Ban
TTBC/QĐ4…có sĩ quan vừa ra trường được xin hoặc thuyển chuyển về đây.
Ban Thông Tin Báo Chí lúc này lên cao điểm và mở rộng về thông tin,
viết phóng sự chiến trường cung cấp cho phát thanh và cả báo chi trung
ương. Nhà in riêng của QĐ4 (in truyèn đơn, báo bán nguyệt san Chiến Sĩ
Miền Tây, in 2 tập sách cái nhìn mới mẻ về xây dựng nông thôn, chính
Trung Tướng Quang gọi anh Tấn và anh Oánh lên văn phòng, ông chỉ thị 2
anh viết về đề tài này do sự chỉ đạo của ông Tướng và đích thân ông sửa
chửa, hiệu đính hoàn chỉnh mới xuất bản). Ngoài ra chúng tôi có chương
trình phát thanh trên hệ thống Đài Phát Thanh Ba Xuyên gọi là Tiếng Nói
Vùng 4 Chiến Thuật (Đài PT Ba Xuyên ở trên đường từ Thị xã Khánh Hưng –
Sóc Trăng đi Bãi Xào – quận lỵ Châu Thành hay Mỹ Xuyên, nơi bán đuông
chà là sống và món nhậu tại chỗ, nhiều nhất ở miền Tây).
Tóm lại, thời Trung Tướng Đặng Văn Quang “trị vì’ miền Tây là thời cực
thịnh của Ban Thông Tin Báo Chí do tôi làm Trưởng Ban, bên cạnh có 1
Thiếu Tá và 2 Đại Úy Mỹ làm cố vấn cùng với nhân viên 8 người, quân số
ngang bằng với Ban TTBC của QĐ4. Chúng tôi làm việc rất dễ dàng, khi
nghe có tin chiến thắng hay những cuộc hành quân lớn cấp sư đoàn với
tên Tiền Giang, Cửu Long, Dân Chí chúng tôi biết thuộc khu chiến thuật
nào, xin trực thăng đưa ký giả VN hoặc ngoại quốc đang ở Sài Gòn đến
ngay mặt trận. Nếu phía VN chưa có phương tiện thì cố vấn Mỹ xin cho
chúng tôi ngay. Thí dụ cuộc hành quân Tiền Giang, chiến thắng vẻ vang,
ông Tướng Vùng ra lệnh Ban Thông Tin Báo Chí mời ký giả từ Sài Gòn
xuống quay phim, chụp hình, thực hiện phóng sự. Chúng tôi liên lạc với
SĐ7 đưa xe về Sài Gòn đón ký giả xuống Mỹ Tho và đến BTL/SĐ7 ở Mỹ Tho
để có thể giúp phương tiện trực thăng đưa đến chiến địa. Khi Sư Đoàn 21
BB có cuộc hành quân Dân Chí ở rừng U Minh – Cà Mau và chiến thắng lớn,
muốn mời ký giả xuống thì chúng tôi phải vận động, xin cấp 1 hay 2
chiếc trực thăng từ Sài Gòn (sau này, thường thông qua Khối Thông Tin
Giao Tế Dân Sự của Tổng Cục Chính Trị mời giúp và xin phương tiện với
Tổng Cục Tiếp Vận).
Nếu tôi nhớ không lầm, tên các cuộc hành quân của các Sư đoàn không
thay đổi khi Thiếu Tướng Nguyễn Văn Mạnh về thay thế Trung Tướng Đặng
Văn Quang. Trung Tướng Nguyễn Đức Thắng về thay thế Thiếu Tướng Nguyễn
Văn Mạnh sau vụ Tết Mậu Thân 68, Trung Tướng Thắng có thay tên các cuộc
hành quân, tên một vị tướng anh hùng đã chống quân ngoại xâm Pháp tại
chiến trường miền Tây: Trương Công Định…
Năm 1966, Trung Tướng Đặng Văn Quang được Thiếu Tướng Chủ Tịch Ủy Ban
Hành Pháp Trung Ương Nguyễn Cao Kỳ “mời” về giữ chức vụ nghe thì lớn
lắm, Tổng Ủy Viên Kế Hoạch trong Nội Các Chiến Tranh. Đây là chức vụ
“ngồi chơi xơi nước”, Trung Tướng Quang là một vị tướng trẻ (35-36 tuổi
đã đeo 3 sao) và đã hoàn thành chức trách tuyệt vời ở miền Tây tạo
nhiều chiến thắng vẻ vang và được lòng dân chúng, nhất là lực lượng
giáo phái Phật Giáo Hòa Hào tin tưởng và kính trọng. Có thế nói Tướng
Quang là Tướng Vùng Chiến Thuật có nhiều uy tín nhất lúc bấy giờ. Ông
lại có công rất lớn trong việc vận động đặt nền móng thành lập Viện Đại
Học Cần Thơ, chính Trung Tướng Quang là vị tướng Vùng đã xây dựng một
nghĩa trang Quân Đội rộng lớn khang trang tại Cần Thơ chỉ thua tầm vóc
Nghĩa Trang Quân Đội (Biên Hòa). Trung Tướng Đặng Văn Quang đã hổ trợ
hết mình nhà văn nhà báo An Khê Nguyễn Bính Thinh xuất bản tờ nhựt báo
Miền Tây, tòa soạn đặt gần bến Ninh Kiều mà tôi là “con thoi” ( lo giúp
đở tờ báo) giữa Trung Tướng Đặng Văn Quang và nhà văn An Khê (sau này
thời Thiếu Tướng Nguyễn Văn Mạnh tờ báo sống ngoắc ngoải, đến Trung
Tướng Nguyễn Đức Thắng về thì nhựt báo Miền Tây “tắt thở”). Tờ nhựt báo
Miền Tây là tờ báo đầu tiên trong lịch sự báo chí VN xuất bản tại miền
Tây. Hiện nay, Ban biên tập của nhựt báo Miền Tây do nhà văn An Khê làm
chủ nhiệm (cựu Thiếu Tá Tiểu Đoàn Trưởng bị thương nặng thành phế binh
và anh An Khê đã chết ở Pháp chừng hơn 10 năm) có một người hiện đang
hoạt động báo chí, văn học tại thung lũng hoa vàng San Jose: nhà báo
nhà văn Nguyễn Thiếu Nhẫn tức Lão Móc có thể biết sự kiện lịch sử này.
Chính xác hơn, Vùng 4 Chiến Thuật kiêu hùng nhất là thời điểm 64 – 65 –
66 hơn hẳn các ông Tướng từng chỉ huy ở vùng này trước đó (và có thể
nói sau này, cho đến ngày 30.4.75).
Trung
Tướng Đặng Văn Quang là tướng lãnh gần gũi nhất với Trung Tướng Nguyễn
Văn Thiệu (cùng Khóa 1 Đập Đá ở Huế tức là Khóa Quốc Trưởng Bảo Đại,
tiền thân của Trường Võ Bị Quốc Gia Việt Nam – Đà Lạt) và là cấp chỉ
huy đại đơn vị tài giói được Trung Tướng Nguyễn Văn Thiệu tin cậy và đề
bạt thay thế ông ở đồng bằng sông Cửu Long. Ông là người thân cận với
Tổng Thống Nguyễn Văn Thiệu trong những chức vụ cao cấp nhất như Phụ Tá
(Cố Vấn) Tổng Thống Nguyễn Văn Thiệu về Quân Sự, An Ninh & Tình Báo
Quốc Gia, Tổng Thơ Ký Hội Đồng An Ninh Quốc Gia… cho đến ngày Tổng
Thống Nguyễn Văn Thiệu từ chức trao quyền lại Phó Tổng Thống Trần Văn
Hương… Trung Tướng Đặng Văn Quang đeo 3 sao từ năm 1965 và cho đến
30.4.75, 10 năm dài.
Tôi xin mở dấu ngoặc ở đây, tại sao Trung Tướng Đặng Văn Quang, người
hùng của miền Tây bị Tướng Kỳ “chơi” bằng nhiều cách phao tin ông Tướng
vốn sinh đẻ tại Phú Lâm Châu Đốc, sống và lớn lên ở Sóc Trăng (cùng quê
vớí Trung Tướng Dương Văn Đức) là kỳ thị Nam Bắc và “xào nấu”, thổi
phồng lên là tướng lãnh tham nhũng gộc. Tình báo CSBV muốn Tướng Quang
phải thân bại danh liệt, mất uy tín của cấp chỉ huy tài giỏi; nên chúng
phao tin xấu như buôn bán bạch phiến, thuốc tây lậu, tiền gời ngân hàng
Thụy Sĩ nhiều triệu dollars…cho ông Tướng Quang nhằm trả thù, cách điều
quân tài tình của ông, đánh tan tành các đơn vị chính quy của CSBV xâm
nhập bằng đường biển và đường biên giới Kampuchia. Tướng Quang là cánh
tay đắc lực của Tổng Thống Nguyễn Văn Thiệu sau này. Kế đên, ông Tướng
cùng với giới trí thức, dân miền Tây, Giáo Hội Phật Giáo Hòa Hảo xin
thiết lập Viện Đại Học Cần Thơ. Không biết vì lý do gì, thời uy quyền
Tướng Kỳ nắm hết trong tay (Nội Các Chiến Tranh) cương quyết không đồng
ý. Tướng Quang theo phe miền Tây xin cho bằng được thành lập Viện Đại
Học Cần Thơ nên làm phật ý Tướng Kỳ. Khi Trung Tướng Nguyễn Văn Thiệu
lập liên danh ra ứng cử Tổng Thống năm 1967, Thiếu Tướng Nguyễn Cao Kỳ
cũng có liên danh tranh cử. Cả 2 ông Tướng cùng ra tranh cử 2 liên danh
khác nhau, chia phiếu quân nhân, có thể cả 2 liên danh đều thất cử và
liên danh dân sự như liên danh Trương Đình Dzu (luật sư, thiên tả) hay
liên danh dân sự nào khác sẽ đắc cử. Vì vậy Hội Đồng Tướng Lãnh mới có
cuộc họp quyết định sáp nhập 2 liên danh của Trung Tướng Thiệu và Thiếu
Tướng Kỳ làm một. Tôi nghe kể lại buổi họp đó rất gây cấn, các ông
Tướng vốn xuất thân từ khóa 1 Nam Định (cùng khóa với Tướng Kỳ) đều
nhiệt liệt ủng hộ Thiếu Tướng Nguyễn Cao Kỳ. Đối nghịch lại, Trung
Tướng Đặng Văn Quang hết lòng ủng hộ Trung Tướng Nguyễn Văn Thiệu và
nhiều tướng lãnh khác gốc miền Trung, miền Nam cũng ủng hộ, nên có thể
là cái lý do Tướng Kỳ “ghét” Tướng Quang thậm tệ nên chuyện phao tin,
thêu dệt Tướng Quang tham nhũng gộc được phe Tướng Kỳ khuấy động dữ dội
thời điểm đó. Chuyện này còn kéo dài đến trại tập trung người tỵ nạn CS
ở Texas năm 1975, cũng có người muốn hành hung, nói ông Tướng Quang
“đầu nậu’ tham nhũng nên mất nước…
Ngoài ra, còn một yếu tố quan trọng khác, thời Trung Tướng Đặng Văn
Quang làm Tư Lệnh V4CT, cố vấn Mỹ đề nghị đưa vài đơn vị lớn của Mỹ về
V4CT kể cả Đại Tướng Mỹ Westmoreland cũng có ý kiến đó nữa. Trung Tướng
Đặng Văn Quang viện nhiều lý do là QLVNCH được sự tích cực ủng hộ của
dân chúng và các đơn vị giáo phái tân tuyển có tinh thần chiến đấu
tuyệt vời; các đơn vị chủ lực và địa phương của các tiểu khu đủ sức
ngăn chặn sự xâm nhập của bộ đội CSBV và luôn chiến thắng nên không cần
có các đơn vị lớn của Hoa Kỳ và xin Hoa Kỳ tăng cường giúp các Vùng
Chiến Thuật khác. Nghĩa là Tướng Quang mạnh dạn từ chối Hoa Kỳ đổ quân
xuống miền Tây. Có một lần Tướng Quang tâm sự với chúng tôi cùng ngồi
trên trực thăng chỉ huy C & C, nếu quân Mỹ ồ ạt đổ vào miền Tây thi
chúng ta mất phần nào chánh nghĩa chống quân CSBV mà chúng ta dư sức,
ăn thua đủ với quân chánh quy CSBV. Một vụ khác CIA, cố vấn Mỹ muốn
Tướng Quang phải triệt hạ Đại Úy LLĐB Dan Marvin cùng với 5 nhân viên
Mỹ khác luôn cả trại biệt kích hoặc bắt Đại Úy Dan Marvin giải giao về
Sài Gòn. Lý do, Đại Uý Dan Marvin không thi hành lịnh ám sát Quốc
Trưởng Sihanouk ở Kampuchia (nhằm bịt miệng vụ tai tiếng này). Điều cần
lưu ý toán LLĐB này đang làm cố vấn cho Trại Biệt Kích biên phòng Dân
Nam thuộc quận An Phú – Châu Đốc rất được sự mến mộ của dân chúng địa
phương và Giáo Hội Phật Giáo Hòa Hảo. Trại Biệt Kích biên phòng Dân Nam
do các cựu chiến sĩ Hòa Hảo dưới quyền chỉ huy của Thiếu Tá Lê Văn Phồi
(Trung Tá Phồi đang định cư ở Hoa Kỳ) điều hành chỉ huy. Nếu sử dụng
đơn vị chính quy QLVNCH tiêu diệt trại này thì sẽ có hàng trăm chiến sĩ
chống cộng nhiệt thành cũng bị chết lây. Vì vậy, Tướng Quang cũng chống
và ông tự giải quyết tốt đẹp nên cũng không được lòng Hoa Kỳ, không
ngoan ngoản làm theo bất cứ cái gì cố vấn Hoa Kỳ muốn. Thời gian sau
khi Tướng Quang về Trung ương thì Mỹ đã đưa cả Sư Đoàn 9 BB đặt bản
doanh tại căn cứ Đồng Tâm – Mỹ Tho, đơn vị này cũng chẳng tạo được
thành tích chiến thắng vẻ vang nào như QLVNCH.
Vì vậy, có thể vài phóng viên của Hoa Kỳ mượn cớ bên phía VNCH, CSBV
tung tin Tướng Quang tham nhũng số 1 của chế độ và các cơ quan truyền
thông bị nhiễm nộc độc của Tướng Kỳ lại phóng đại lần nữa nên giới
truyền thông Mỹ lại nêu đích danh Tướng Quang tham nhũng gộc…nên có
nhiều người Việt tỵ nạn CS tin mới làm phiền ông Tướng đáng thương.
Chuyện
tình báo CSBV phao tin Tướng Quang buôn bán bạch phiến và thuốc Tây lậu
khi ông làm Tư Lệnh V4CT (và sau này khi Tướng Quang làm Phụ Tá Tổng
Thống Nguyễn Văn Thiệu). Chuyện 1 ông Tướng ở miền Tây mà buôn bán ma
tuý và thuốc Tây lậu thì quả thật là chuyện của cõi trên mà cũng có
người tin cho tới ngày nay mới là lạ. Hiện nay, ông và bà Tướng cùng
đang nằm trong Nursing Home ở Sacramento do 2 vợ chồng đệ tử, làm dưới
quyền ông năm xưa ở QĐ4 hết lòng chăm sóc, thăm viếng vì tất cả 7 đứa
con của ông bà Tướng Quang đều ở xa như Pháp, Úc, Canada và 2 người ở
Maryland và Indiana. Cuộc sống của 2 ông bà hiện nay chỉ tính bằng
tháng thôi vì lớn tuổi vào hàng 8, ông bị bệnh Alzheimer, bà bị bệnh
tim và tiểu đường…
Xin mời các chiến hữu và độc giả tìm đọc bài báo viết về cuộc đời của
Tướng Quang với những thử thách bi thảm từ Sài Gòn đến Sacramento, với
cái tít: The Trial of General Dang – From Saigon to Sacramento, a South
Vietnamese General’s Journey Proves Old Soldiers Don’t Fade Away, They
Stick Together của nhà báo R.V. Scheide
(email: rvscheide@newsrewiew.com) đăng trên tờ tuần báo Sacramento News
& Review (SN & R), phát hành tại Sacramento và có ấn bản ở
nhiều thành phố khác ở miền Bắc Cali. Bài báo có kèm theo nhiều tấm
hình hồi còn oai quyền của Trung Tướng Quang mà cựu Trung Tá LLĐB Dan
Marvin có được và ông đã viết thành sách với tựa đề “Expendable Elite –
One Soldier’s Journey Into Covert Warfare” xuất bản năm 2003 nói về
cuộc đời của ông Dan, 1 sĩ quan LLĐB Mỹ tham chiến tại VN và có lòng
câu chuyện Tướng Quang cứu mạng tác giả..
Bài báo này có trong số Volume 20, Issue 27 ngày thứ năm 4.12.08. Địa
chỉ tòa soạn 1015 20th Street – Sacramento, CA. 95811, tel:
916.498.1234 và Editorial Fax: 916.498.7920 hoặc lên Web site: www.
newsreview.com trong mục Local Stories. Bài báo có trích dẫn lời của
ông Tom Polgar, trùm tình báo CIA ở Sài Gòn lên tiếng chánh thức, Tướng
Quang không tham nhũng, không có tiền gởi ngân hàng Thụy Sĩ và những
chuyện ly kỳ khác mà người ta áp đặt tham nhũng cho một ông Tướng trẻ
và thực tài của QLVNCH trong hơn 40 năm qua. Nhờ có sự xác minh của
trùm CIA, Thượng Nghị sĩ, Dân Biểu Liên Bang và có đơn thỉnh nguyện của
Trung tá Dan Marvin gởi lên Tổng Thống Bush (Bush cha), Bộ Ngoại Giao
Mỹ cho Tướng Quang nhập cảnh và định cư ở Hoa Kỳ thập niên 90. Trước đó
Bộ Ngoại Giao Mỹ từ chối cấp Visa cho Tướng Quang với 2 lý do vì ông bỏ
trại tỵ nạn ở Texas hơn 1 tháng như quy định và quan trọng ông bị ghép
tội tham nhũng nên không được vào nước Mỹ…
Có
một lần, cách nay chừng 6 năm khi cựu Trung Tướng Đặng Văn Quang còn ở
Atlanta – Georgia, tôi, từ Sacramento có bay sang thăm “thầy cũ” và đem
câu hỏi ông bị tố tham nhũng gộc của chế đô VNCH mà CSBV, phe ta Quốc
gia và cơ quan truyền thông Mỹ cùng “bề hội đồng” mà nay ông Tướng lại
nghèo xơ xác. Trung Tướng Quang nói rằng, thiên hạ kể cả người Việt
quốc gia, CSBV và vài nhà báo Mỹ thêu dệt đủ điều nào tôi buôn bán bạch
phiến, đầu cơ tích trữ thuốc tây nhập vào để chuyển lên Sài Gòn bán, có
tiền đến nhiều triệu dollars Mỹ gởi ngân hàng Thụy Sĩ…Tôi (đại ý lời TT
Quang) như cái thùng rác họ liệng vô những gì dơ bẩn của chế độ, tôi
không lên tiếng vì tôi tin có Chúa biết là đủ, ngoài ra Tổng Thống
Thiệu biết và lương tâm tôi biết, còn người đời nói gì mặc kệ họ. Vì
những lời nói chân tình đó của một người thầy cũ mà vợ chồng tôi hết
lòng giúp đở mời ông bà Tướng về định cư tại Sacramento, cách nay hơn 3
năm, và chúng tôi tự nguyện lo cho 2 ông bà Tướng đến ngày được Chúa bổ
nhậm lần cuối về Vùng 5 Chiến Thuật.
TRUNG TƯỚNG NGUYỄN VĂN MẠNH
Trung Tướng Đặng Văn Quang khi được Thiếu Tướng Nguyễn Cao Kỳ “cất
nhắc” về trung ương làm Tổng Ủy Viên, Thiếu Tướng Nguyễn Văn Mạnh được
điều về thay thế. Tướng Mạnh gặp trận tồng công kích tổng nổi dậy của
cộng sản, vụ Tết Mậu Thân năm 1968. Cờ tướng của ông treo tại Bộ Tư
Lệnh QĐ4 ở đại lộ Hòa Bình Cần Thơ, bị VC pháo kích vào làm rớt cờ
tướng vào sáng Mồng Một Tết. Trong khi đó, VC đã xâm nhập vào khu
trường Tiểu Học gần vòng rào BTL/QĐ4, khu nhà Xã Đài, Viện Đại Học Cần
Thơ, Thánh Thất Chiếu Minh (?) của đạo Cao Đài, đối diện gần đài phát
thanh Cần Thơ. Các nơi này ở ngay lỗ mũi của vị tướng Vùng 4 Chiến
Thuật. Chiến trận ác liệt xảy ra đồng loạt tại các khu chiến thuật. Cờ
tướng bị bay là điểm gỡ, ông Tướng Mạnh bị thay ngay bởi Trung Tướng
Nguyễn Đức Thắng từ trung ương về.
Trung Tướng Nguyễn Văn Mạnh vốn xuất thân từ khóa 2 Đập Đá cùng khóa
với Thiếu Tướng Hồ Văn Tố (Thủ Khoa) chết vì “cởi ngựa gió’ khi ông
đang nắm chức Chỉ Huy Trưởng Liên Trường Võ Khoa Thủ Đức mà khóa 13 Ấp
Chiến Lược chúng tôi đang học, năm 1962, Đại Tá Lam Sơn Phan Đình Thứ
về thay thế.
Trong các vị Tướng trấn nhậm Vùng 4 Chiến Thuật, Trung Tướng Mạnh là vị
tướng đeo kính cận, trông rất thư sinh thiếu cái oai phong như các vị
tướng Tư Lệnh tiền nhiệm. Ông Tướng quá hiền lành nên các ông tướng cấp
sư đoàn không nể vì như thời Trung Tướng Đặng Văn Quang. Trong số đó có
Chuẩn Tướng Lâm Quang Thi, Tư Lệnh SĐ9 BB mà tôi chứng kiến khi 2 vị
tướng trao đổi lệnh lạc…Với tác phong của Trung Tướng Nguyễn Văn Mạnh
là tướng tham mưu, đúng chỉ số nên sau này, Trung Tướng Nguyễn Văn Mạnh
giữ chức vụ Tham Mưu Trưởng Bộ Tổng Tham Mưu lâu dài nhứt hơn các vị
tướng tiền nhiệm.
TRUNG TƯỚNG NGUYỄN ĐỨC THẮNG
Trung Tướng Nguyễn Đức Thắng có thể nói là cánh tay phải của Thiếu
Tướng Nguyễn Cao Kỳ, Chủ Tịch Ủy Ban Hành Pháp Trung Ương, từ chức Tổng
Ủy Viên Xây Dựng Nông Thôn, Tướng Thắng về thay thế Tướng Mạnh trong
hoàn cảnh dầu sôi lửa bỏng tại vùng đồng bằng sông Cứu Long. Chính
Trung Tướng Thắng là vị tướng bình định an ninh lãnh thổ nhanh và các
đơn vị thuộc quyền kính sợ nhất. Ông là vị tướng Tư Lệnh có tác phong
võ biền tại tiền tuyến, tạo ấn tượng nhất đôi với thuộc cấp, xe jeep 3
sao lúc nào cũng mui trần đi thanh sát các đơn vị đồn trú chung quanh
Cần Thơ bất cứ ngày đêm. Toán cận vệ của ông Tướng là những người lính
chịu đựng khổ nhọc nhất, không được quyền rời khỏi xe hay địa điểm xe
đậu vì ông Tướng chợt đến chợt đi, toán cận vệ trở tay không kịp và
thuộc cấp thường bị phạt hơn là được tưởng thưởng.
Tôi nhớ mãi, vài lần tôi được lệnh theo ông Tướng cùng đi quan sát
chiến trường hoặc đến tỉnh nghe thuyết trình về kế hoạch xây dựng nông
thôn… Ông Tỉnh Trưởng thường tổ chúc ăn uống tươm tất sau khi làm việc
xong, có nhiều vị tai mắt của tỉnh kể cả các vị dân cử đến tham dự đông
đủ. Gần chấm dứt chương trình làm việc, bàn tiệc đã dọn xong gần phòng
họp chỉ chờ mời Trung Tướng Thắng nhập tiệc. Nhưng cái tính lập dị của
ông (muốn nêu gương liêm khiết?), không cần xã giao, cám ơn ông Tỉnh
Trưởng mời dùng cơm trưa rồi chỉ thị tài xế trực chỉ ra phi trường, tôi
cùng với 2 phi công đang đói meo cũng đành tức tốc lên xe chạy theo.
Lên ngồi trên trực thăng, sĩ quan tuỳ viên của ông Tướng là Trung Úy
Pháo Binh (cùng binh chủng với Tướng Thắng) Huỳnh Văn Huỳnh móc trong
ba lô lấy ra 1 ổ bánh mì kẹp thịt dài tổ chảng, ông ngồi ăn ngon lành,
báo hại phi hành đoàn và tôi bị cơn đói hoành hành dữ dội. Ăn xong ông
uống chừng hơn nửa bi đông nước, ông mới ra lệnh cho trực thăng cất
cánh đi thanh sát vài địa điểm khác hoặc các đơn vị đang hành quân, đến
chiều mới về lại Cần Thơ. Tôi và phi hành đoàn bị đói vài lần phát
“tởn”, sau này đi đến tỉnh nào có dự thuyết trình buổi trưa thế nào
cũng có thết đãi quan khách thì chúng tôi làm sao ăn trưa được. Vỏ quit
dày có móng tay nhọn, hể đến chỗ họp có thuyết trình, tôi xin ngay tài
liệu và chương trình, sau đó nhờ ông Trưởng Ty Thông Tin hoặc Trưởng
Khối Chiến Tranh Chính Trị Tiểu Khu xin ông Trưởng Ty Tài Chánh tỉnh
cấp phiếu đi ăn do công quỹ tỉnh đài thọ. Chúng tôi thường chọn nhà
hàng sang trọng của tỉnh và gần địa điểm thuyết trình. Còn chuyện quay
phim chụp hình, tôi nhờ khối CTCT hoặc Ty Thông Tin cung cấp khi tôi
trở lại hội trường để đợi tháp tùng ông Tướng ra phi trường. Mọi chuyện
đều tốt đẹp tới khi ông Tướng “bị” thuyên chuyển về trung ương ngồi
chơi xơi nước để Thiếu Tướng Nguyễn Viết Thanh, Tư Lệnh SĐ7 BB về thay
thế.
Cái lập dị của Trung Tướng Thắng thấy rõ nhất là trước văn phòng của
Đại Tá Tham Mưu Trưởng QĐ4, đối diện với BTL, ông Tướng Thắng cho lệnh
để một cái mobile home cũ mèm, chắc một ông cố vấn Mỹ nào đó về nước bỏ
lại. Ông ăn ở trong đó sau khi đi thanh sát về hoặc hết giờ làm việc,
không chịu về ở tư dinh khang trang và đồ sộ nhất của tỉnh Cần Thơ. Mỗi
buổi chiều có 1 ông sĩ quan Quân Y của Ban QY/ QĐ4 (gần căn phòng tôi
đang ở trong cư xá sĩ quan – Miếu Tiên Sư) đến “lụi” cho ông tướng 1
mũi thuốc khỏe (hay thuốc bổ). Từ cổng chính của BTL/QĐ4 & V4CT mới
qua trạm gác thấy một cái mobile home nằm chình ình, trông mất thẩm mỹ.
Ai cũng biết Tướng Thắng thường đêm khuya thức giấc, ông đến Trung Tâm
Hành Quân, cách chừng chục bước, theo dõi chiến sự của các đơn vị để
ông có kế hoạch tức thời vào sáng hôm sau. Một sự lập dị khác, từ Bộ
Tổng Tham Mưu cho đến tất cả các đơn vị, hể chiến sĩ nào có công trong
thời gian VC tấn công Tết Mậu Thân 1968, miễn có 1 năm thâm niên cấp
bậc đều được vinh thăng 1 cấp, anh Huỳnh Văn Huỳnh và tôi là 2 sĩ quan
thường đi theo Tướng Thắng như kể ở trên. Chúng tôi chỉ còn một vài
tháng là có đủ 2 năm thâm niên cấp bậc Trung Úy, theo lẽ được vinh
thăng Đại Ùy đợt thăng cấp đại trà này. Nhưng ông Tướng lập dị của
chúng tôi ra lệnh phòng Tổng Quản Trị không cho ai thăng cấp chưa có đủ
2 năm thâm niên, theo ông Tướng, BTL/QĐ4 phải làm gương (các đơn trực
thuộc QĐ4 đóng trong Thị xã Cần Thơ và TK Phong Dinh, hể ai có 1 năm
thâm niên cấp bậc, xét có công, đều vinh thăng 1 cấp) nên tôi và anh
Huỳnh Văn Huỳnh đều mất cơ hội thăng Đại Úy, năm sau tôi được thăng Đại
Úy nhiệm chức đầu năm vì nhu cầu Quân Lực và cuối năm 1969 đủ điểm
thăng lên Đại Úy thực thụ.
Chúng tôi thường “nói lén” Trung Tướng Nguyễn Đức Thắng dù là một tướng
tài, hết lòng phục vụ cho lý tưởng đất nước, nhưng có tánh bốc đồng,
gàn dỡ, có người nói ông Tướng bị điên không biết khen thưởng, nâng đở
thuộc cấp và chỉ có biết trừng phạt, ký củ hay cách chức. Tôi nghĩ
rằng, ông Tướng được cấp dưới kinh sợ hơn kính mến như các vị tướng Tư
Lệnh khác.
Trong đời quân ngũ, tôi biết Trung Tướng Nguyễn Văn Minh (Minh đờn) là
vị tướng luôn đùm bọc, thương yêu, giúp đở hết lòng thuộc cấp, nhất là
những người gần gũi bên ông. Còn Tướng Thắng là ông Tướng sử dụng nhân
viên trực thuộc làm việc dưới quyền ông cực nhọc nhất cũng không được
ông ban cho chút ân huệ nào. Ông Tướng Thắng quả không biết đắc nhân
tâm nên tương lai sự nghiệp của ông cũng dở dang và ông trở lại học lấy
bằng cử nhân toán để ngắm nhìn cho vui khi được giải ngũ trước năm 1975.
TRUNG TƯỚNG NGUYỄN VIẾT THANH
Thiếu Tướng Nguyễn Viết Thanh, Tư Lệnh SĐ7 BB, từ Mỹ Tho ông được
thượng cấp bổ nhậm về Cần Thơ thay thế Trung Tướng Nguyễn Đức Thắng.
Thiếu Tướng Nguyễn Viết Thanh được báo giới lúc bấy giờ phong tặng danh
hiệu một trong 4 ông Tướng thanh liêm, trong sạch nhất trong QLVNCH:
nhứt Thắng, nhì Chinh, tam Thanh, tứ Trưởng. Phu nhân của Thiếu Tướng
Thanh là một cô giáo vẫn còn dạy học ở Mỹ Tho, không bỏ nghề sư phạm gõ
đầu trẻ khi Tướng Thanh về Cần Thơ, sống trong một tư dinh rộng lớn
thênh thang. Cả hai ông bà có cuộc sống trầm lặng, đạo đức cho đến ngày
Thiếu Tướng Nguyễn Viết Thanh đang ngồi trên chiếc máy bay chỉ huy cuộc
hành quân vượt biên sang lãnh thổ Kampuchia và bị tai nạn phi cơ, cả 2
chiếc trực thăng đều bị rơi và bốc cháy. Thiếu Tướng Thanh là vị tướng
tài giỏi và đạo đức bị tử nạn, QLVNCH mất thêm một vị tướng tài sau
Trung Tướng Đỗ Cao Trí Tư Lệnh QĐ3 & V3CT cũng trong cuộc hành quân
vượt biên trước đó sang Kampuchia cũng thiệt mạng trong 1 phi vụ trực
thăng. Trung Tướng Đỗ Cao Trí được truy thăng Đại Tướng và Thiếu Nguyễn
Viết Thanh cũng được truy thăng Trung Tướng. Cố Trung Tướng Nguyễn Viết
Thanh được dân làng của ông tôn thờ ông trong một ngôi đình, là một vị
Thần Hoàng Bổn Cảnh của địa phương, đúng với câu Sinh Vi Tướng, Tử Vi
Thần.
Tôi làm việc dưới quyền Thiếu Tướng Thanh chừng 1 năm và tôi xin đổi về Tổng Cục Chiến Tranh Chính Trị ở Sài Gòn.
Có một kỷ niệm với Thiếu Tướng Thanh, tôi được ông Châu Kim Nhân (sau
làm Tổng Trưởng Tài Chánh), Tổng Cục Trưởng Cơ Quan Tiếp Vận Trung Ương
(trực thuộc Phủ Thủ Tướng) xin với Bộ Quốc Phòng cho tôi biệt phái về
đảm nhiệm chức vụ Giám Đốc Nha Tiếp Vận (Hành Chánh) Miền Tây, một Nha
mới đang thành lập. Thiếu Tướng Nguyễn Viết Thanh gọi tôi tới văn phòng
và ông Tướng nói chức vụ này lớn thật, nhưng anh đi thì ai thay thế,
anh tìm được người thay thế thì tôi cho anh đi. Ngẫm lại khẩu lệnh của
Tướng Thanh làm sao tôi rời khỏi được chức vụ Trưởng Ban Thông Tin Báo
QĐ4 & V4CT để biệt phái sang hành chánh giữ chức quan trọng này,
chậm trễ sẽ có người vào ngay vì nhu cầu cần thiết gắp. Tôi bìết sức
học mình chẳng bao nhiêu, nhưng chẳng ai được cấp trên ở QĐ4 lưu ý như
tôi vì ngoài nhiệm vụ đi theo ông Tướng, còn làm phát thanh, xuất bản
nguyệt san Chiến Sĩ Miền Tây, viết bình luận phát thanh, phóng sự chiến
trường, chụp hình… và việc quan trọng viết diễn văn, nhật lệnh cho vị
Tư Lệnh dù mỗi năm chừng 6 lần… Gần Mặt Trời nên thường bị nóng, các
ông Tướng có thể giũa te tua sĩ quan TTBC, như thời Trung Tướng Nguyễn
Đức Thắng. Có 1 lần ông Tướng Thắng sỉ vả đã rồi còn hăm đổi tôi đi đơn
vị khác, vì một chuyện cố vấn thông tin báo chí Mỹ sắp xếp với 1 ký giả
Mỹ đến “rình” chụp hình quay phim, phỏng vấn Tướng Tư Lệnh vừa mới đáo
nhậm đơn vị mới. Ông Tướng Thắng tưởng tôi làm chuyện đó mà không trình
trước. Tôi nổi sùng trình lớn với ông Tướng tại Trung Tâm Hành Quân,
tôi làm sai nguyên tắc hệ thống quân giai, Trung Tướng phạt hay đổi tôi
đi đâu cũng được. Có vị Đại Tá sau đó nói nhỏ với tôi sao em trả lời
với Trung Tướng cứng cỏi vậy, ông Tướng giận đổi em đi thì sao? Sau đó,
có lẽ Tướng Thắng hiểu rõ câu chuyện khi tiếp xúc với ký giả Mỹ, không
biết ông Tướng và anh ký giả này nói gì mà tôi tai qua nạn khỏi.
Người sĩ quan tuỳ viên của Thiếu Tướng Thanh, anh Liên Khía Ích, nguyên
là giáo sư trung học dạy Anh Văn trường trung tiểu Phước Kiến (sau đổi
là Phước Đức). Anh Liên Khía Ích gốc là người Hoa 100% cùng dạy với tôi
trường này mà tôi đang giữ chức Giám Học các môn dạy bằng tiếng Việt,
còn anh Liên Khía Ích dạy tiếng Anh giảng bằng tiếng quan thoại. Anh
Liên Khía Ích sinh trưởng ở Chợ Lớn nên bị động viên như tôi và anh học
Thủ Đức sau tôi chùng 5-6 khóa. Tội nghiệp, anh Liên Khiá Ích cùng chết
theo ông thầy vì anh là tuỳ viên của Tướng Nguyễn Viết Thanh, lúc đó
anh đeo lon Đại Úy và chắc chắn anh cũng được truy thăng 1 cấp như ông
thầy của anh.
KẾT LUẬN
Như trên đã trình bày, tôi từng phục vụ một chức vụ từ ngày được thuyên
chuyển về Miền Tây năm 1963 cho đến ngày (đầu năm 1970), tôi rời nơi
đất lành chim đậu Phong Dinh về lại Sài Gòn, Tổng Cục Chiến Tranh Chính
Trị. Tôi phụ trách về thông tin báo chí của đại đơn vị này với 7 vị Tư
Lệnh Quân Đoàn 4 & Vùng 4 Chiến Thuật. Thời gian ngắn nhất, thời
Trung Tướng Nguyễn Hữu Có, thời kỳ lâu nhất với Trung Tướng Đặng Văn
Quang.
Quân Đoàn 4 & Vùng 4 Chiến Thuật quả là vùng đất gần như bất khả
xâm phạm của cộng quân với các vị tướng tài về trấn nhậm như Trung
Tướng Dương Văn Đức, Trung Tướng Đặng Văn Quang, Trung Tướng Nguyễn Đức
Thắng, Trung Tướng Nguyễn Viết Thanh, Trung Tướng Ngô Quang Trưởng,
Thiếu Tướng Nguyễn Khoa Nam…Chiến thắng nhiều nhất là thời Trung Tướng
Đặng Văn Quang, thời điểm đó 5 vị Tiểu Đoàn Trưởng kiệt hiệt nhất được
phong tặng là “Ngũ Hổ Tướng Miền Tây”: Lê Văn Hưng, Hồ Ngọc Cẩn, Lưu
Trọng Kiệt, Lê Văn Dần và Vương Văn Trổ (hiện nay chỉ có Trung Tá Vương
Văn Trổ còn sống, định cư ở Houston – Texas) đưa QĐ4 thành một đơn vị
kiêu hùng vào bậc nhất của QLVNCH. An ninh, toàn vẹn lãnh thổ trách
nhiệm QK4 được bảo toàn cho đến lúc CSBV cưỡng chiếm từ QK1 đến Thủ Đô
Sài Gòn. Khi có lệnh buông súng đầu hàng giặc sáng ngày 30.4.75, toàn
bộ Quân Khu 4, mãi vài ngày sau mới hoàn toàn bị nhuộm đỏ sau khi 3
danh tướng anh hùng đã tuẫn tiết theo vận nước ngã nghiêng: Thiếu Tướng
Nguyễn Khoa Nam Tư Lệnh QĐ4 & QK4, Chuẩn Tướng Lê Văn Hưng Tư Lệnh
Phó QĐ4 & QK4 và Chuẩn Tướng Trần Văn Hai Tư Lệnh SĐ7 BB. Trong khi
đó 2 vị tướng anh hùng khác cũng tuẫn tiết: Thiếu Tướng Phạm Văn Phú,
nguyên Tư Lệnh QĐ2 & QK2, Chuẩn Tướng Lê Nguyên Vỹ, Tư Lệnh SĐ5 BB
cùng nhiều sĩ quan, hạ sĩ quan và binh sĩ QLVNCH thà chết tuẩn tiết hơn
là đầu hàng giặc. Gương sáng anh dũng Tướng chết theo thành muôn đời
sau vẫn còn trong lịch sử Việt Nam.
Chính Trung Tướng Đặng Văn Quang là vị Tư Lệnh có số năm tháng trấn
nhậm vùng đồng sống Cửu Long này lâu nhất và được đồng bào địa phương
quý trọng nhất. Đó cũng là thời điểm QĐ4 nổi danh kiêu hùng nhất trong
quân sử, QĐ4 & V4CT luôn chiến thắng nối tiếp chiến thắng làm quân
thù CSBV khiếp sợ. Ngoài ra, có nhiều thành tích phát triển kinh tế
nông nghiệp, ông Tướng Quang tiếp sức xây dựng được Viện Đại Học Cần
Thơ, thiết lập được một Nghĩa Trang Quân Đội tầm cở, Bộ Tư Lệnh QĐ4 có
nhà in riêng, xuất bản được sách báo và giúp một chiến sĩ phế binh xuất
bản được tờ nhựt báo đầu tiên ở đồng bằng sông Cửu Long. Chính Trung
Tướng Đặng Văn Quang cũng là người bị chụp mũ, tố cáo tham nhũng vào
bậc nhất của chế độ VNCH có nhiều triệu đô la Mỹ gởi bí mật sang ngân
hàng Thụy Sĩ cất giữ. Quả tôi nghiệp cho ông Tướng tứ bề thọ địch, có
nhiều kẻ thù như CSBV, Mỹ, phe ta và những kẻ a dua. Khi tỵ nạn CS như
bao người khác, Trung Tướng Quang phải đi làm thuê kiếm sống ở tiệm
café Martin chuyên lo rửa ly, bồi phòng hoặc làm thợ sản xuất ly chén
tại một cơ xưởng ở Montreal – Canada từ 1975, đến 1989 mới được có Visa
sang định cư Hoa Kỳ do cựu Trung Tá LLĐB Dan Marvin vận động. Ông bà
Tướng Quang sống trong cảnh thiếu thốn cơ hàn ở Nam Cali trong căn nhà
thuê, dư luận cũng không buông tha, họ chữi bới thậm tệ trên báo chí
hay các nơi công cộng nên ông Tướng không dám trường mặt ra những nơi
đó. Trong lúc đó, bà Tướng phải làm dưa món, bánh quai vạc, bánh bao…
đi bỏ mối kiếm sống qua ngày. Thế cũng bị thiên hạ nguyền rủa, nói rằng
ông bà Tướng giàu quá vì tham nhũng, nay giả bộ che mắt thế nhân.
Cuộc đời của ông bà Tướng sống quá bi thảm ở Nam Cali, rồi qua
Atlanta-Georgia còn bi đát hơn, ở trong 1 garage mướn, thiếu điện nước,
nhà vệ sinh…và cuối cùng được hai vợ chồng một cặp Thiếu Tá, đàn em làm
dưới quyền ông Tướng hơn 40 năm trước mời về định cư tại Sacramento và
gần đây 2 ông bà Tướng vì bị mãn tính nặng nên được đưa vào một nhà
dưỡng lão chờ ngày về với Chúa.
Cuộc đời bi thảm của Trung Tướng Đặng Văn Quang với bao nỗi hàm oan mà
ông đã gánh chịu hơn 40 năm, nay cần được người đời phán xét lại một
cách công minh và lương thiện, để đánh tan mọi sự hiểu lầm của rất
nhiều người trong giới từng cầm súng chống cộng như Trung Tướng Đặng
Văn Quang và người viết bài này. Danh dự của Trung Tướng Đặng Văn Quang
cần phải được phục hồi trọn vẹn./.
LỜI NGƯỜI VIẾT:
Chắc chắn qua một thời gian quá dài hơn 40 năm, người viết có thể nhớ
sai đôi chút, nhưng quả tình người viết trình bày theo sự hiểu biết
giới hạn của mình để mong lấy danh dự lại của vị tướng tài có nhiều hàm
oan mà nhiều người hiểu lầm khinh ghét ra mặt.
Xin nói rõ, dù tôi là đệ tử của Trung Tướng Đặng Văn Quang lúc ở Vùng 4
Chiến Thuật – Miền Tây cũng từng bị ông Tướng Quang (Tư Lệnh SĐ21 BB)
ký phạt 30 ngày trọng cấm khi bỏ đơn vị Trung Đoàn 33 về trình diện đơn
vị mới P.5/QĐ4 mà đến ngày nay, tôi luôn một lòng kính trọng và hình
ảnh ông Tướng Quang luôn ngự trị trong trái tim tôi.
Nếu quý vị thức giả có điều chi cần liên lạc, bổ chính, góp ý, sửa chửa
những gì gọi là sai, xin quý vị cứ tự nhiên gới Email:
tranvannga@hotmail.com, điện thoại: 916.427.6638 (nhà) và Cell:
916.519.8961. Xin đa tạ
Sacramento vào Đông 2008 (22.12.08).
Cựu Trưởng BanThông Tin Báo Chí QĐ4 & V4CT
Trần Văn Ngà (cựu Thiếu Tá – Khóa 13 Thủ Đức)
Các bài Hoang Hieu đã đưa lên
Kinh goi ong TRAN VAN NGA
Toi thuoc the he nho sau nay.
Nhung toi rat thich bai viet cua ong.Toi cung kinh yeu lich su,du khong duoc hieu biet nhieu.
Ngay con hoc o Doan Thi Diem ,chung toi duoc danh du di ruoc dam tang cua ong Nguyen Viet
Thanh tu san bay .Toi con nho luc do troi mua du lam.Va toi nho lai minh cung buon nhieu.
Toi rat thich khi duoc doc bai viet cua ong.Nho do ma kien thuc ve tinh hinh o Can Tho noi rieng va vung 4 chien thuat noi chung cua toi duoc mo mang chut it.
Toi cung muon hieu ve” cuoc doi -su nghiep cua TT THIeu va cuoc song doi thuong cua ong
Va ca ve ong Ngo Dinh Diem nua.
Neu co the va khong lam phien xin ong Nga ke lai cho toi biet duoc khong?
Du duoc hay khong ,toi cung xin cam on bai viet cua ong,cam on ong da doc la thu nay.
Xin chao.
Ca Hang