Ngũ
Giác Đài bạch hóa hồ sơ mật chống Bắc Việt
KẾ HOẠCH
LY KỲ OP 39 (1965-1968)
(Mặt trận
Gươm Thiêng Ái Quốc và Thiên Đàng Đảo)
Lâm Lễ Trinh
visited Biet
Hai pages
Drive them crazy
with Psywar.
(William Colby)
Cuối năm 1962,
William Colby, trưởng lưới CIA tại Sàig̣n, về Hoa Thịnh Đốn
phụ trách Nha Giám Đốc Kế hoạch CIA Vùng Đông Á. Tổng
thống Kennedy ra lệnh một mặt, điều nghiên lại các họat
động bí mật thất bại của cơ quan này ở Bắc Việt và
mặt khác, "gấp tạo bất ổn trên đất địch như địch
đang làm ở Miền Nam".
Nhận thức CSVN
- cũng như các nước xă hội chủ nghĩa khác - nơm nớp lo
sợ nội loạn, gián điệp và phá họai, Colby chủ trương
cần "làm họ điên đầu bằng cách leo thang tâm lư chiến,".
Thời Chiến tranh
lạnh, tâm lư chiến gồm có lănh vực tuyên truyền (radio,
truyền đơn, truyền h́nh, báo chí...) và những kỹ thuật
khác thuộc khoa tâm lư (dựng ra những mặt trân hay tổ chức
đối kháng giả tạo...). Colby chọn Herb Weisshart, từng phụ
tá cho ông ở Sàig̣n và làm việc trước đây trong vùng Đông
Bắc Á châu, thay mặt CIA trong chiến dịch nàỵ Chủ đích
của tân chiến dịch là ǵ? "Buộc Bắc Việt xoay về bảo
vệ hậu cần hơn là dồn nổ lực viễn chinh ở Miền Nam.
You couldn’t expect much more, Không c̣n muốn ǵ hơn!", Herb Weisshart
xác nhận như thế.
Năm 1963, theo chương
tŕnh chuyển tiếp Switchback, Ngũ Giác Đài thay CIA phụ trách
chiến tranh bí mật chống Hà Nội v́ "Quân đội có tiền,
nhân lực và khí cụ." Herb Weisshart và một số nhân viên CIA
được biệt phái về Phái bộ Quân sự HK tại VN, Military
Assistance Command Vietnam, hay MACV, để xúc tiến kế họach OP
39 tại cơ quan Nghiên cứu và Thám sát SOG, Studies & Observation
Group, do Đại tá Clyde Russell. chỉ huỵ cho đến ngày chấm
dứt vào tháng 11.1968, dưới thời Tổng thống Lyndon Johnson,
kế hoạch OP 39., (c̣n được mệnh danh, Chương tŕnh dương
đông kích tây, Diversionary Program) đă thực hiện một số
công tác khá độc đáo về
chiến tranh tâm
lư chống Bắc Việt.
Căn cứ vào hồ
sơ vừa giải mật của Ngũ Giác Đài, quyển sách "The Secret
War Against Hànội" của Richard H. Shultz, Jr., giáo sư chính trị
học tại Fletcher School of Law and Diplomacy, đă phân tích khá
tinh vi những công tác ấỵ Mặt trận Gươm Thiêng Ái Quốc,
Sacred Sword of the Patriots League.
Một trong những
mục tiêu phức tạp nhất của kế hoạch OP 38 là thử cấy
trong tâm trí người dân Miền Bắc ư niệm một tổ chức
chống cộng, Về t́nh báo, tổ chức này cần dựa vào một
sự tích khả tin. Weisshart đă phỏng vấn nhiều người Việt
và nhờ họ, được biết chuyện "kiếm thần" của vua Lê
Lợi.
Năm 1406, vua Minh
xua quân Tàu xâm chiếm và đô hộ VN một cách dă man khiến
Lê Lợi, một chủ trại giàu có, khởi nghĩa tại Thanh Hóa.
Lê Lợi nhờ có những sáng kiến tuyệt vời về chính trị,
tâm lư lẫn quân sự để tạo chính nghĩa và thu hút sự ủng
hộ của toàn dân. Sử chép rằng ngài dùng một bút nhọn
thấm mỡ súc vật viết "Lê Lợi là v́ vua" trên các lá cây
trong rừng. Khi kiến ăn hết mỡ, câu này lộ ra, dân chúng
cho rằng đây là điềm Trời. Họ tung hô Lê Lợi và ào ạt
tham gia kháng chiến.
V́ thế địch
quá mạnh, Lê Lợi phải rút vào vùng núi Hà Tịnh để đánh
du kích. Năm 1428, quân Minh đại bại, rút lui, Lê Lợi xưng
vương với danh hiệu Lê Thái Tổ và thành lập triều đại
nhà Lê, trị v́ VN hơn ba thế kỷ. Ngoài công tŕnh dựng nước
hiễn hách, vua Lê Lợi c̣n là đầu đề của một huyền thoại
khác. Tục truyền rằng một ngày nọ Ngài du thuyền trên Hổ
Lục Thuỷ giữa đế đô Hànội, bổng có kim quy nổi lên
mặt nước, vua liền phóng kiếm, kim quy lặn mất mang theo
thanh kiếm.. Theo dân chúng truyền tụng, Lê Lợi đă nhận
thần kiếm để dẹp giặc và thống nhất sơn hà, nay sứ
mạng hoàn tất, kiếm phải trả lại Thượng Đế.
Để tưởng nhớ
câu chuyện vừa nói, Hồ Lục Thủy được đổi tên thành
Hồ Hoàn kiếm, The Lake of the Returned Sword. Dân Việt, già trẻ,
đều thuộc nằm ḷng sự tích, họ hănh diện về Lê Lợi,
người anh hùng quốc gia điển h́nh, xuất thân từ cái nôi
cách mạng Hà Tịnh, đă dùng du kích đuổi kẻ thù ngh́n kiếp
Trung hoa ra khỏi xứ.
Đảng CS cũng
kính nể nhưng xếp Lê Lợi sau "Bác" Hồ!
SOG chọn cốt
chuyện Lê Lợi để đặt tên cho Mặt trận Gươm Thiêng Ái
quốc, MTGTAQ, (The Sacred Sword Patriots League, gọi tắt SSPL) v́
nghĩ rằng kỷ niệm của vị minh chúa nhà Lê có đủ hấp
lực để phát động moat phong trào bí mật chống cộng sản
vong quốc và thu hút quần chúng Bắc Việt vẫn câm thù vụ
cải cách ruộng đất đẫm máu từ 1953 đến 1956, theo lệnh
của Bắc Kinh.
SOG sắp xếp lớp
lang chi tiết để tạo tính cách khả tin cho tổ chức giả
tưởng vừa nói: "Trong phiên Đại hội vào tháng chạp 1961,
Mặt Trận đồng thanh bầu Lê Hưng Quốc - nhân vật ma -làm
Chủ tịch; Mặt trận ra Tuyên ngôn chống sự can thiệp của
tất cả ngoại bang vào nội t́nh VN và yêu cầu mọi lực
lưọng vơ trang, cố vấn và ảnh hưởng của các nước ngoài
phải rút khỏi hai Miền Nam, Bắc; đặc biệt, Tuyên ngôn đả
kích nhóm lănh đạo Hànội làm tay sai cho Trung cộng, tái diễn
tṛ nô lệ của thời xưa và đẩy đất nước vào thế nạn
nhân trong cuộc tranh chấp Mỹ- Hoa.
Kết thúc MTGT
kêu gọi Hànội thay đổi gấp chính sách" Về mặt tuyên truyền,
MTGT rêu rao không ngừng phát triển mạnh trong lănh vực chính
trị lẫn quân sự, đă cho thành lập nhiều tổ ở khắp nơi
và năm 1965, có 10,000 đảng viên, trong đó 1,600 được vơ
trang. Chứng minh thư có đóng dấu triện "MTGTAQ Xứ Ủy Nam
Bộ", do Uûy viên Thường vụ Lê Hùng Cường kư tên, được
phát cho một số "cán bộ quân sự nồng cốt... sinh họat
với các Tổ Tỉnh trên toàn xứ".
Tiến thêm một
bước, vào tháng tư 1965, Đài Tiếng nóí của Mặt Trận,
Voice of the Secret Sword of the Patriots League,VOSSPL, tự xưng đặt
trên vùng núi Hà Tịnh, phát thanh thường xuyên về phiá Bắc
Việt. SOG thuê moat số phi công gốc Đài loan (từng côïng
tác với CIA trong thập niên 50) dùng phi cơ không mang dấu hiệu
rải truyền đơn ban đêm trên vĩ tuyến 17. Truyền đơn tung
tin có khu giải phóng "dưới vĩ tuyến 19". Để bên kia chiến
tuyến tin MTGTAQ là một thực thể, kế hoạch OP 39 tổ chức
quy mô - như trong phim giả tưởng Hollywood - một vùng tự do,
liberated zone. Thiên Đàng đảo, Paradise Island. Làm thế nào
cơ quan SOG có thể lập một khu giải phóng cho MTGT khi Hoa Thịnh
Đốn từ chối cho phép giữa năm 1963 kế hoạch OPLAN 34A gài
du kích vào Bắc Việt? OP 39 giải quyết trở ngại bằng cách
chọn dưới vĩ tuyến 17, ngoài khơi Đà nẳng, Cù lao Chàm
(được Mỹ đặt tên Paradise Island) và xây cất tại đây
những làng giống hệt ngoài Bắc để cài giáo số ngư phủ
gốc Bắc bị các thuyền mang cờ MTGT bắt được trong lănh
hải Bắc Việt kể từ tháng 5.1964.
Những thuyền
này cất dấu tại Đànẳng, làm bằng cây để tránh bị radar
địch phát hiện và được điều động bởi nhóm thủy thủ
Việt hoá trang. Khi sa vào lưới của SOG, các ngư phủ bị
bịt mắt và đưa về đảo. Họ ở đây ba tuần, tiếp xúc
với dân làng toàn nói giọng Bắc (để họ có cảm tưởng
sống trong một vùng giải phóng ở BV), được cho ăn uống
no đủ, săn sóc sức khoẻ chu đáo và, đồng thời, được
cung cấp tin tức về t́nh trạng tham nhũng, hủ hoá và bè
phái trong giới lănh đạo CS.
Trước ngày bị
bịt mắt lại để đưa trở về nguyên quán cũng bằng đường
biển, mỗi ngư phủ nhận được một ra dô pin, đă gài sẵn
băng tầng Đài Tiếng Nói MTGT, và vài món quà thực dụng
như xà pḥng, quần aó v.v... Họ được chỉ dẫn cách liên
lạc bí mật với những tổ bạn hoạt động tại địa phương.
Năm 1966, có 353
dân BV được "huấn luyện" tại Thiên Đàng đảo. Từ 1964
cho đến 1968, tổng số lên đến 1.003. Để Hànội đừng
khám phá ra mặt thật của kế hoạch, OP 39 áp dụng một số
phương pháp khác, với sự đồng ư của Hoa Thịnh Đốn. Thí
dụ: Một Toà án MTGT tuyên xử tử h́nh, v́ tội phản quốc,
các người bị bắt trong những trận đụng độ giữa thuyền
bè Bắc Việt và Mặt trận nhưng sau đó, họ được Măt trận
ân xá và cho học tập. Trước ngày hồi hương, họ tuyên
thệ trung thành với MT. Một số nhận làm gián điệp và đưa
tin. Nếu họ quyết định đào ngũ và rời vĩnh viễn BV th́
họ được định cư trong Nam.
Hoa Thịnh Đốn,
mặt khác, bác bỏ một số dề nghị "quá khích" của OP 39
như dùng Đài phát thanh của MTGT cổ vơ nổi lọan ở BV và
ám sát vài lănh tụ CS. Đầu năm 1968, Bộ Tư lệnh MACV đưa
ư kiến MTGT nên chuyển qua giai đọan tổ chức đánh phá thật
sự CS trên phần đất của họ, Toà Bạch ốc cũng không chịu
v́ bốn lư do: hoạt động bí mật phải phản ảnh chính sách
công khai; không thể để t́nh thế vuột khỏi tầm tay kiểm
soát; bị khiêu khích, Hànội sẽ tăng cường mức độ xâm
lăng Miền Nam; và Trung cộng không ngồi yên trước cảnh đàn
em BV tan ră.
Chiến dịch tấn
công bằng truyền thanh, truyền đơn và tặng phẩm.
Ngoài đài Tiếng
Nói của MTGT, kế hoạch OP 39 c̣n xử dụng một số phương
tiện truyền thông cho nhiều mục tiêu riêng biệt. Một trong
các chủ đích là báo cho dân chúng trên vĩ tuyến 17 biết
- để gây hoang mang - có hoạt động chống chính phủ Hànội
tại BV. Bằng kỹ thuật đánh lừa mệnh danh snuggling, một
đài phát thanh được đặt sát cạnh Đài radio CS Hànội,
cùng chung một tầng số và mang cùng một tên, để khuấy
phá.
Tháng 5.1965, Toà
Bạch ốc cho thành lập cơ quan JUSPAO, Joint US Public Affairs Office,
do Barry Zorthian chỉ huy, để phối hợp tất cả các công tác
tâm lư chiến, dân sự và quân sự, kể luôn công tác mật
tại BV và dài theo đường ṃn Hồ Chí Minh ở Lào và Miên.
Juspao điều hành đài rađô Tiếng Nói Tự Do, Voice of Freedom
(VOF) phát thanh 75 giờ mỗi tuần bằng 5 ngôn ngữ, chuyên đả
phá Radio Hànội và đưa vào BV tin tức của thế giới tự
do, tin chiến trường xác thực, chương tŕnh văn hoá và giải
trí, b́nh luận so sánh đời sống hai miền Nam, Bắc…
Hệ thống tuyên
truyền SOG gồm có Radio Red Flag, mệnh danh là tiếng nói của
nhóm chống đối trong đảng CS Bắc Việt. Đài này không gay
gắt với Nga sô nhưng chỉ trích mạnh Chính trị bộ ngă theo
Bắc kinh đem lại đau khổ và chết chóc cho dân tộc. Ra dô
Hồng Kỳ, đặt ở ngoại ô Sàig̣n, xử dụng một số cán
bộ hồi chánh Việt và kỹ sư Phi Luật Tân. CIA điều hành
từ Miền Nam đài phát thanh riêng mang tên Sao Đỏ, Red Star
Radio, chủ trương đặc biệt tố cáo Mặt trận Giải phóng
Miền Nam là công cụ của CS Bắc Việt.
Khẩu hiệu của
đài là "Miền Nam của dân Nam". Đài Ra dô Hànội giả áp
dụng kỹ thuật điện tử ghosting để phá những buổi phát
thanh của địch và thay thế vào đó những tin tức hay chỉ
thị trái ngược. Qua chiến dịch Peanuts, nhiều chục ngh́n
chiếc máy ra dô pin tí hon Nhựt, với tầng số xếp sẵn,
được thả dù ban đêm bên kia vĩ tuyến hay đưa vào bằng
đường biển, chung với truyền đơn và những gói tặng phẩm
đựng viết, đèn cầy, sách..vv..
Nhiều bức thơ
giả mạo được viết và gởi từ Paris, Hongkong, Tokyo, Bangkok...
về địa chỉ của một số cán bộ cao và trung cấp CS ở
Hànội bịa ra những mối liên lạc mật hay chỉ trích Trung
ương Đảng. Cơ quan kiễm duyệt gắt gao của BV có thể sa
vào bẩy. Các cán bộ CS hồi chánh ở Miền Nam cũng được
khuyến khích viết thơ cho thân nhân trên vĩ tuyến 17 đề
cao đời sống ở Miền Nam.
Chương tŕnh Soap
Chips chuyên lo việc gắn vào xác của chiến binh BV thơ trối
trăn (giả) của họ gởi về gia đ́nh, mô tả cảnh sống
cơ cực trong Quân đội Nhân dân và thái độ cư xử hống
hách của cố vấn Tàu cộng. OP 39 cũng có chương tŕnh Eldest
Son mua lại từ quốc gia đệ tam loại súng AK-47 và súng cối
82 ly do Trung cộng chế tạo, để tháo gở ra, gài vào bên
trong chất nổ, xong ráp lại để thả dù tại vùng CS ở Lào
và Miên. Những vơ khí này gây thiệt hại cho dối phương
không ít. Trước khi qua đời vào năm 1969, Hồ Chí Minh có
lệ hằng năm gởi thơ chúc Tết cán bộ tại ngũ.
Quần chúng mỏi
mệt và oán ghét Bắc kinh v́ chiến cuộc kéo dài. Mùa Xuân
1971, OP 39 cho in và phổ biến ở Lào, Miên và Miền Nam 22.000
tấm thiệp kư tên Trường Chinh, nhân vật khét tiếng thân
Trung cộng đề cao "trường kỳ kháng chiến nhất định thắng
công". Theo sự tiết lộ của Bob Andrews, một chuyên viên Tâm
lư chiến, SOG có đề nghị tràn ngập BV bằng giấy bạc giả
để làm suy sụp nền kinh tế CS nhưng "thượng cấp" không
chấp nhận.
Thẩm lượng
kế họach OP 39. Lư do thất bại:
Hoa kỳ đă đầu
tư rất nhiều tiền, sáng kiến và kỹ thuật vào tâm lư chiến
chống Hànội. Tuy nhiên, phần kết trong phúc tŕnh thẩm lượng
tháng hai 1968 của nhóm MACV Ad Hoc Evaluation Group, do Thiếu tướng
AR. Brownfield,Jr. chủ tọa, cho biết " Chương tŕnh SOG không
rơ ràng và quá rộng, not clear and too broad." Ba Đại tá chỉ
huy liên tiếp SOG là Clyde Russel, Don Balckburn và Jack Singlaub
cũng thú nhận kế hoạch OP 39 không đem lại kết quả mong
muốn. Nếu đào sâu, sẽ thấy nhiều lư do:
1 - Thiếu mục
tiêu chiến lược, Lack of strategic purpose. Đúng vậy, Hoa Thịnh
Đốn không cho phép SOG tổ chức một phong trào chống đối
thật sự trên vĩ tuyến 17 hay khuyến khích dân chúng BV hành
động. Năm 1956, v́ Ngoại trưởng John Foster Dulles chống đối,
HK đă bỏ qua cơ hội tổ chức dấy lọan để lật đổ CS
Bắc Việt. Chủ trương của Tổng thống Kennedy năm 1961 tạo
bất ổn ở Miền Bắc để trả đũa cũng lần hồi xuống
giọng. Năm 1963, William Colby đề nghị áp dụng "bài học Hung
gia Lợi" ở BV nhưng không được chấp nhận v́ sợ Bắc kinh
phản ứng. Chính sách "vừa đánh, vừa thủ" của HK làm cho
Bob Andrews, một trong chuyên gia điều khiển OP 39, than trách:
Think small, don’t think big, because if you think big, you’ll never
get it done."
2 - Thiếu sự
phối trí và bổ sung, lack of coordinated planning and integration,
giũa các phần bộ của kế hoạch OP 39 bị chia cách quá đáng,
viện lẽ cần tích cực bảo mật. Không có một kế hoạch
đầu năo năo, không ai trong OP 39 thật sự hiểu kế hoạch
sẽ dẫøn đến đâu.
3 - Nhân sự không
có đủ kinh nghiệm về tâm lư chiến và không thông hiểu
văn hoá Việt Nam. Quân nhân Mỹ và nhân viên CIA biệt phái
qua kế hoạch OP 39 không được huấn luyện thích hơp để
thi hành công tác đúng đắn.
4 - Thẩm lượng
không chính xác ảnh hưởng của những cuộc hành quân tâm
lư chiến đối với mục tiêu Bắc Việt.
Trong kế hoạch
OP 39, Pḥng Sưu tầm và Phân tích, Research & Analysis, có
trách nhiệm thu thập, đối chiếu và giải thích tin tức từ
Miên Bắc để một mặt, t́m ra các yếu điểm tâm lư của
phe địch và mặt khác, ấn định hiệu quả của việc áp
dụng kế hoạch.
Mục đích thứ
hai không hề thực hiện được. Bill Rydell, nguời điều khiển
chót OP 39, cho rằng sự thẩm lượng này không dễ trong một
chế dộ công an trị sau bức Màn sắt. Ít khi đối phương
chịu tiết lộ hiệu quả thật sự hay phản đối công khai.
Bắc Việt chống
trả mănh liệt.
V́ bị gián điệp
ám ảnh thường xuyên và lo ngại HK tấn công bằng chiến
tranh tâm lư nên CS đề pḥng bằng nhiều phương thức gắt
gao như cho báo giới liên tục kêu gọi dân chúng cảnh tỉnh,
siết chặt mạng lưới công an khắp nới, phổ biến sâu rộng
tài liệu "Chỉ dẫn và Biên pháp" và ban hành luật phạt tối
đa (tử h́nh, khổ sai) những hành động "phản quốc, phá
rối trật tự."
Đặc biệt, từ
1965 đến 1967, CS tạo trong xứ một bầu không khí căng thẳng
tối đa ố hơn cả t́nh trạng bị xâm nhập thật sự - để
thức tỉnh dân về chiến dịch bí mật của Mỹ. Tháng sáu
1967, hai tờ báo Học Tập và Nhân Dân công khai tố Mặt trận
Gươm Thiêng Ái quốc là một tổ chức ma và cấm nhặt quần
chúng lén nghe các "đài phát thanh lậu", đọc truyền đơn
và nhận các góí tặng phẩm từ bên ngoài. Tuy nhiên có một
điều mà Hànội không biết rơ là Hoa Thịnh Đốn không đồng
ư cho lật đổ chính phủ CS bằng vơ lực. Đầu tháng 11.1968,
Tổng thống Lyndon Johnson ra lệnh chấm dứt hai kế hoạch OP
39 và OP 34 v́ Bắc Việt chiụ bắt đầu nói chuyện hoà b́nh.
Ngũ Giác Đài
đợi nhiều thập niên mới bạch hoá hồ sơ chiến tranh bất
quy ước chống Hànội sau khi thua cuộc chiến quy ước năm
1975. Đây là một bài học đắt giá khác cho Hoa kỳ bị đánh
bại lần đầu tiên từ ngày lập quốc.
Trong bao nhiêu
tính toán sai lầm, ít nửa có một điều mà trùm CIA William
Colby đự đoán không trật: Tâm lư chiến đă làm Cộng sản
thật sự "phát điên" v́ tạo cho họ một cuộc sống ngày
đêm hoảng hốt. Cuộc chiến bằng trí óc này đáng lư đem
lại kết quả khá hơn nếu thượng tầng lănh đạo Hoa kỳ
quyết tâm đánh để thắng và thông suốt tâm lư Á châu.
Lâm Lễ Trinh
|