Đại Tướng Cao Văn Viên
Đại tướng Quân lực Việt Nam Cộng hòa
Mạn đàm với Đại
tướng Cao Văn Viên
Lâm Lễ
Trinh
Từ Hoa Thịnh Đốn, tin cho biết Đại tướng Cao Văn Viên, nay 85 tuổi, phải
một lần nữa nhập viện Virginia Hospital Center vì bệnh tim tái phát trầm trọng.
Ngày mùng hai Tết Bính Tuất, chúng tôi có nói chuyện khá lâu với ông qua điện
thoại khi ông vừa từ bệnh viện trở về cư xá cao niên tại số 4435 N. Pershing
Drive, Arlington . Ông có linh cảm khó thoát khỏi, tuy trí tuệ vẫn còn sáng
suốt. Tình trạng sức khoẻ sút kém của vị tướng đàn anh trong Quân đội VNCH gây
lo ngại trong Cộng đồng người Việt Hải ngoại vì ông từng giữ lâu năm nhiều chức
vụ then chốt thời Đệ nhứt và Đệ nhị Cộng Hoà: Tham mưu trưởng Biệt bộ tham mưu
Phủ Tổng thống (thời chính phủ Ngô Đình Diệm), Tư lệnh Lữ đoàn Nhảy dù, Tư lệnh
Quân đoàn, Tham mưu trưởng Liên quân, Tổng Uỷ viên Chiến tranh, Ủy viên Quốc
phòng, và Tổng Tham Mưu trưởng (từ tháng 11.1967 cho đến ngày 27.4.1975, gần một
thập niên).
Mối thân tình giữa chúng tôi bắt đầu từ 1958 khi Trung tá Viên thay thế Đại tá
Nguyễn Văn Là, đảm trách chức Tham mưu trưởng Biệt bộ Tham mưu Phủ Tổng thống
trong giai đoạn người viết là Bộ trưởng Nội vụ trong Nội các Ngô Đình Diệm từ
1954 cho đến cuối 1959.
Trung tâm Lubbock giúp hiệu đính lại The Final Collapse
Lối tháng 2.2002, Đại tướng Viên gởi tặng cho chúng tôi hai quyển sách tiếng
Anh: tập tiểu thuyết best seller “Monkey Bridge, Cầu khỉ” do ái nữ của ông là
Lan Cao, giáo sư luật quốc tế ở Đại học Brooklyn, New York, sáng tác, và “The
Final Collapse”, tài liệu chuyên khảo dày 184 trang, do chính ông khởi viết vào
khoảng 1976-1978 và được Center of Military History, United States Army,
Washington DC, xuất bản năm 1983. Một số chuyên gia danh tiếng Mỹ về chiến tranh
Đông Dương như Ronald S Spector, Jeffrey Clark, Philip Davidson..hợp tác với
Trung tâm Quân sử này. Về phiá Việt Nam, có các tướng Cao Văn Viên, Ngô Quang
Trưởng, Đồng Văn Khuyên, Trần Đình Thọ, Nguyễn Duy Hinh, đại tá Hoàng Ngọc
Lung.. Sáu tác giả vừa kể sáng tác được 16 tập nghiên cứu, tất cả được xếp vào
bộ Indochina Monographs. Tướng Viên viết riêng quyển Leadership (1981), The
Final Collapse (1983) và viết chung với Đồng Văn Khuyên Reflections on the
Vietnam War (1980).
The Final Collapse phân tích các lý do sụp đổ của Miền Nam VN về mặt quân sự và
chính trị. Tuy nhiên, có ba điểm trong quyển sách này không làm cho tướng Viên
vừa ý:
1. Nhà xuất bản Mỹ cho in trên bìa hình một chiến xa mang cờ Việt Cộng, khiến
các độc giả có thể hiểu lầm ông.
2. Một số đoạn trong sách, khi được biên tập viên dịch ra tiếng Anh, đã diễn đạt
sai lạc ý kiến của tác giả và
3. Ông chưa thực hiện được bản tiếng Việt đồng lúc với bản tiếng Anh để trình
bày quan điểm cá nhân trong chi tiết.
Vì tình bạn, người viết đã giúp ĐT Viên liên lạc với ông Nguyễn Xuân Phong, cựu
Quốc vụ khanh phụ trách Hoà đàm Paris và hiện là đồng giám đốc VN Center thuộc
Đại học Texas Tech University , Lubbock, Texas. Với sự hỗ trợ của giới tài phiệt
Hoa kỳ, trung tâm này hiện tàng trữ nhiều sử liệu VN nhứt trên thế giới về quân
sự, văn hoá và chính trị. Trung tâm có phương tiện để hiệu đính, bổ túc, in lại
và phổ biến The Final Collapse. Vì tướng Viên phải ngồi xe lăn và di chuyển khó
khăn cho nên ông Nguyễn Xuân Phong đã nhiều lần đích thân từ Texas lên Hoa Thịnh
Đốn để phỏng vấn và ghi lại trong gần hai năm các đoạn cần điều chỉnh trong The
Final Collapse. Vốn tốt nghiệp Đại học Oxford và là một nhà ngoại giao kỳ cựu,
ông Phong chu toàn mọi việc về mặt sinh ngữ.
Một trong các lý do khiến Trung tâm Lubbock nhận giúp là tướng Viên liên tục
thay mặt gần một thập niên chính phủ VNCH để bàn thảo về chiến lược quân sự
chống Cộng sản với các tư lệnh đồng minh Mỹ, từ Paul Harkins, William
Westmoreland, Creighton Abrams cho đến Frederic Weyand. Trong vị thế ấy, ĐT Viên
có dịp thu thập kinh nghiệm quý báu về cuộc chiến không quy ước giữa Nam và Bắc
Việt, một cuộc chiến trong đó Hànội chủ trương đấu tranh toàn diện, khai thác
tối đa tuyên truyền, đẩy mạnh dân vận và đột nhập dưới vĩ tuyến 17, bất chấp các
Hiệp ước ký kết.
Công việc viết lại The Final Collapse vừa hoàn tất, sách sắp xuất bản một ngày
gần đây. Điều an ủi trong hiện tại là The Final Collapse được dịch giả Nguyễn Kỳ
Phong chuyển ngữ qua tiếng Việt năm 2003 dưới tên Những Ngày Cuối của VNCH (nhà
xuất bản VN Bibliography, Virginia) gồm có 10 chương, 295 trang và một số chú
thích của tướng Viên. Theo tác giả tâm sự với người viết, The Final Collapse
không thể đề cập đầy đủ đến mọi sự việc vì bị giới hạn trong phạm vi sử dụng các
sử liệu, một số lớn chưa được Ngũ Giác Đài, Nga, Tàu và chính quyền Bắc Việt
giải mật vào năm 1983.
Cuộc mạn đàm với Đại tướng Cao Văn Viên tại West Virginia
Từ 1975 đến nay, Tướng Viên giữ một sự im lặng có liêm sĩ và từ chối phê bình
đến những biến cố tại VN cũng như bí mật trong hậu trường. Người viết đã mất
nhiều năm thuyết phục ông nên góp phần đánh tan những dư luận không đúng - từ
phía quốc gia, đồng minh cũng như cộng sản - liên hệ đến cuộc chiến đã qua. Cuối
cùng, trước Giáng sinh 2004, người viết đã thực hiện được tại tư thất của nguyên
Trung tá Lý Thanh Tâm, một chuyên viên địa ốc thành công ở Springfields,
Virginia, cựu bí thơ thân tín của ĐT Cao Văn Viên (CVV), một buổi mạn đàm
thân mật bốn tiếng đồng hồ có ghi hình. Tướng Viên nhận trả lời cởi mở nhiều câu
hỏi liên hệ đến đời công và tư của ông.
Đúng theo lời giao kết, toàn nội dung cuộc nói chuyện chưa được tiết lộ tới giờ
này. Nay Đại tướng Viên quá yếu về sức khoẻ, người viết nghĩ đã đến lúc có thể
công khai hoá vài điều tâm tình của ông. Đây cũng là cách nói lên sự nguỡng mộ
đối với một người bạn thân quý, đồng thời một nhân chứng hàng đầu trong chính
trường Miền Nam VN.
Dưới đây là những câu vấn đáp chính của cuộc mạn đàm giữa Đại tướng Viên (CVV)
và ngưới viết (LLT) có thể tiết lộ trong phạm vi bài này:
LLT: Vào tháng 4.1975, năm cuối của cuộc chiến, VNCH có 1.100.000 lính
tại ngũ, một trong những quân đội lớn nhứt ở Á châu. Lúc đó, Quân đoàn 4, với
trên dưới 200.000 quân, chưa đánh một trận lớn nào, chưa một Tư lệnh nào bỏ
chạy. Tại sao chúng ta lại thua CS mau như thế, trong hỗn loạn? có đáng thua hay
không, thưa anh?
CVV (một phút suy nghĩ): Có nhiều lý do. Đây là một vấn đề phức tạp. Chỉ
nói về phiá Hà Nội mà thôi, CS - dưới sự lãnh đạo của Hồ Chí Minh - có kế hoạch
xâm lăng Miền Nam ngay từ sau Hiệp định Genève, 1954. Hiệp ước Paris, 1973, đã
bắc cầu thêm cho chúng, đánh dấu bước lùi cuối cùng của Thế giới Tự do. Kế hoạch
thôn tính Miền Nam do Chính trị bộ nghiên cứu kỹ, thi hành liên tục, với quyết
tâm chiến thắng bằng mọi giá, bằng mọi hy sinh. Hànội được đồng minh Nga, Tàu hổ
trợ toàn lực, với khối xã hội chủ nghĩa đứng sau lưng. Bắc kinh và Mạc tư khoa
không trực tiếp xen vào để chỉ huy. Tại Miền Nam, chúng ta thiếu các yếu tố
thuận lợi ấy, chúng ta không liên tục trong sự lãnh đạo. Với một đồng minh như
Hoa kỳ, thử hỏi làm gì được? Đồng minh với Mỹ khó hơn là kẻ thù của Mỹ. VN không
phải là quốc gia đầu tiên thí nghiệm bài học đau đớn này! VNCH chỉ là một con cờ
trong chiến lược toàn cầu của đại cường Hoa kỳ. Chiến lược ấy đạt được mục tiêu
sau khi Nixon gặp Mao Trạch Đông năm 1972 tại Bắc kinh.
LLT: Trong vụ nhóm Nguyễn Chánh Thi âm mưu đảo chính hụt ngày 11.11.1960,
chuyện gì đã xảy ra cho anh? Anh biết gì về việc thương thuyết giữa Chánh văn
phòng Võ Văn Hải (đại diện cho TT Diệm) và phe Vương Văn Đông? về vấn đề TT Diệm
có trao cho tướng Nguyễn Khánh một tờ giấy viết tay cam kết trao quyền lại cho
Quân đội, theo lời ông Khánh tiết lộ với tôi?
CVV: Vài tuần trước đó, để giúp tôi làm việc dễ hơn, ông Quách Tòng Đức,
Đổng lý Phủ Tổng Thống, có cấp cho tôi, Tham mưu trưởng Biệt bộ, một căn nhà gần
bệnh viện Grall và một chiếc xe Peugeot 202 mang số ẩn tế. Ngày 11 tháng 11, khi
nghe tiếng súng đầu tiên nổ lớn, tôi đích thân lái xe đến Phủ đi vòng phía vườn
Tao Đàn. Một lính nhảy dù võ trang tiểu liên, hùng hổ la to bảo ngừng xe, tôi
chưa kịp quay kiến xuống để hỏi ất giáp thì anh ta nổ súng, kiến trước bể tung,
may phước tôi không bị thương. Vừa bước khỏi xe, tôi được lệnh đến ngồi dưới gốc
một cây me với vài quân nhân bị bắt như tôi. Liền lúc đó, một xe jeep nhà binh
trờ tới, anh lính nhảy dù vừa hô, vưà bắn xối xả vào xe, người tài xế chết tức
tốc. Tôi không thấy tận mắt những gì diễn tiến sau đó tại Dinh Độc lập. Được
biết tướng Khiêm về kịp để can thiệp, tướng Khánh nhảy rào giờ chót vào Dinh để
chỉ huy. Phiến quân tan rã, số sĩ quan mưu loạn trốn qua Cam bốt, bắt theo tướng
Thái Quang Hoàng làm con tin. CIA giúp Ls Hoàng Cơ Thụy, trong Bộ Tham mưu của
Đông, thoát khỏi VN. Tôi nghĩ Hoa kỳ đã sử dụng cuộc đảo chính hụt ngày
11.11.1960 và vụ hai phi công Phạm Phú Quốc - Nguyễn Văn Cử ném bom Dinh Độc lập
vào tháng 2.1962 như hai cảnh cáo, warnings liên tiếp đối với TT Diệm, trước khi
tiến vào giai đoạn chót là lật đổ ông ngày 1.11.1963.
Tôi có nghe nói TT Diệm bảo ông Hải ra trước cổng Dinh điều đình với phe phiến
loạn. Hình như họ yêu cầu ông bà Nhu phải ra đi. Bà Nhu lồng lộn phản đối đòi
hỏi này khi ông Hải trở vào trình với TT Diệm, trước thái độ im lặng của ông
Nhu. Về chuyện ông Khánh tiết lộ, tôi không tin Tổng Thống Diệm sẵn sàng trao
quyền lúc đó. Đây chỉ là một kế hoãn binh.
LLT: Sau khi Tổng thống Diệm bị đảo chính năm 1963, các tướng Miền Nam có
được chuẩn bị về chính trị để lãnh đạo cuộc chiến chống Bắc Việt hay không? Anh
nghĩ sao về Hội đồng Quân nhân Cách Mạng? Nếu ông Diệm thoát khỏi cuộc đảo chính
1963 thì anh nghĩ Miền Nam có thể tránh sụp đổ chăng năm 1975?
CVV: Họ thiếu chuẩn bị về chính trị. Họ chia rẽ. Không ai có đủ khả năng
và uy tín để thay thế Tổng thống Diệm. Nhóm đảo chính tự phong cho mình danh
xưng Cách mạng. Thật ra mục tiêu của họ là giết TT Diệm chớ không phải thay đổi
tốt xứ sở. Bằng chứng là họ đã gây ra sau 1.11.63 hỗn loạn liên miên và tự loại.
Không có một lãnh tụ nào có tầm vóc hay cương lĩnh kiến quốc cở Nasser ,
Sukarno, Lý Thừa Vảng..
Để trả lời phần hai câu hỏi của anh: Ông Diệm là một lãnh tụ được biết nhiều về
mặt quốc tế, hơn ông Thiệu. Dù sao, ông chỉ là một symbol, một biểu tượng mà
thôi, ông không thể làm gì nếu không có cố vấn Nhu bên cạnh. Tất cả các bài diễn
văn của TT Diệm đều do ông Nhu soạn thảo. Khổ nỗi, Hoa kỳ muốn tách ông Nhu khỏi
ông Diệm. Ông Nhu là một trở ngại. Trở ngại lớn hơn TT Diệm. Vì ông Nhu có nhiều
mưu lược. Ông Nhu chống Mỹ hơn chống Pháp. TT Diệm thì trái lại. Rốt cuộc,
ông Diệm trở thành nạn nhân của Mỹ.
LLT: Việc Tổng thống Thiệu tom hết quyền bính trong tay, qua mặt Quốc hội
và Tối cao Pháp viện, một mình quyết định bỏ Cao Nguyên và Miền Trung là điều có
lợi hay hại? Trong quyển hồi ký “Đôi dòng ghi nhớ” (1994, trang 191-215), cựu
Chánh văn phòng của anh là đại tá Phạm Bá Hoa có kể lại cuộc rút quân bi thảm
của tướng Phạm Văn Phú theo đường số 7 và nhắc lại hai khẩu lệnh của anh bằng
điện thoại cho đương sự ngày 15 và 18.3.1975 bảo gởi phi cơ vận tải C130 cho
Quân đoàn 2 và chở các quân dụng đắt tiền khỏi Pleiku “mà không cho biết lý do”.
Ông Hoa than phiền Tổng Cục Tiếp vận, thuộc bộ Tổng Tham mưu, không hề được
thông báo về tình hình suy sụp ở Cao Nguyên. Anh nghĩ sao về lờiï than phiền
này?
CVV: Tất nhiên không có lợi. Một cá nhân không thể quyết định đơn phương
vận mạng của Đất nước. Ông Phạm Bá Hoa trình bày không đúng về một số sự kiện
trong quyển hồi ký mà tôi đã nhận được. Tôi có gởi cho y một bổn The Final
Collapse được bổ túc để làm sáng tỏ vấn đề nhưng không thấy y nói gì. Phạm vi
cuộc mạn đàm hôm nay không cho phép đi sâu vào chi tiết. Xin để dịp khác.
LLT: Anh có nghĩ rằng chuyện rút khỏi Miền Trung quá sớm, quá hấp tấp và
thiếu chuẩn bị hay không? Đây có phải là một ván bài tố của TT Thiệu để thử coi
Nixon có giữ lời cam kết riêng hay không? Trung tướng Ngô Quang Trưởng từng xác
nhận với chúng tôi rằng đầu năm 1975, quân lực của chúng ta tại Miền Trung không
quá yếu đến nỗi phải tháo chạy tán loạn như vậy, anh nghĩ sao?
CVV: Không chuẩn bị. Về mặt quân sự, rút quân khó hơn tấn công. Khởi đầu
nan, mọi sự đã hư do Mỹ cúp quân viện. Theo tôi, thời cuộc đã diễn ra ngoài ý
muốn của tướng Trưởng, ông không làm gì được. Sau khi Ban Mê Thuột thất thủ ngày
10.3.1975, dân chúng vùng 1 nghe tin đồn Chính phủ sẽ cắt đất nhường cho địch
nên họ hoảng sợ, tự động ào ào bỏ chạy, không ai ngăn nỗi. Trong bài “Vì sao tôi
rút khỏi Miền Trung?” đăng trên báo, tướng Trưởng có nói rằng Bộ Tổng Tham Mưu
không tăng quân số theo lời ông xin. Điều này không đúng. Hai đơn vị tổng trừ bị
là sư đoàn thủy quân lục chiến và sư đoàn dù đã được tăng cường cho ông, mỗi sư
đoàn gồm có bốn chiến đoàn. Trong tay tôi lúc ấy không còn gì nữa. Chính sách
của Hoa Kỳ đã khóa tay chúng ta.
Tôi không đọc được sự suy tính thầm kín của TT Thiệu. Nay ông đã qua đời, hãy để
ông ngủ yên. Anh còn nhớ TT Thiệu từng nói: “Je suis responsable mais pas
coupable.” Mỗi Tổng thống có nỗi khổ tâm riêng. Vào việc rồi mới biết.
LLT: Tôi đã hỏi cựu Ngoại trưởng Trần Văn Lắm (lúc còn sống) và Phó Thủ
tướng Nguyễn Lưu Viên (hiện ở Virginia) kể từ lúc nào họ nhận thức được Miền Nam
sụp đổ. Mỗi người trả lời khác nhau. Với tư cách Tổng Tham Mưu trưởng Quân đội
VNCH, từ thời điểm nào anh thấy tình hình Miền Nam vô phương cứu chữa?
CVV: Trước khi trả lời câu hỏi, tôi xin nêu ra một điểm: Trong quân sử,
có trường hợp - nhưng rất hiếm - những tướng tài với ít quân thắng địch đông
hơn. Đó là trường hợp của Alexandre Đại đế, của Nã Phá Luân... Về vấn đề tương
quan lực lượng, bên nào có quân nhiều thì bên đó ưu thế thượng phong. Khi Mỹ rút
lui sau Hiệp định Bá Lê thì họ tròng vào cổ Miền Nam một chiếc dây thòng lọng,
lần hồi cúp quân viện để gây áp lực, hăm doạ đủ điều. Bắc Việt có quân số và võ
khí dồi dào hơn, không ngớt được tăng cường. Giữa Nam và Bắc, cán cân mỗi ngày
thêm quá chênh lệch. Tình thế hết mong cứu vãn đối với Sàigòn. Hiệp định Bá lê
là án tử hình cho Miền Nam . Mỹ đánh mà không muốn thắng, họ sợ thắng.
Phần thì phong trào phản chiến sôi sục bên trong Hoa kỳ. Xì-căn-đan Watergate đã
xúc tiến sự bức tử của VNCH.
LLT: Anh có nghĩ rằng quyết định giết Tổng thống Diệm sớm làm Miền Nam
sụp đổ hay không? Chuyện gì đã xảy ra cho cá nhân anh ngày 1.11.1963?
CVV: Giết ông Diệm là một lỗi lầm nguy hại. Ngày 1.11.63, tôi là đại tá
tư lệnh Lữ đoàn Nhảy dù (thay thế Nguyễn Chánh Thi). Khi Hội đồng Cách mạng hỏi
tôi có ủng hộ phe đảo chính hay không, tôi trả lời: “Lật đổ Chính phủ là một
chuyện quốc gia đại sự, tôi không được hỏi ý kiến trước. Tôi chỉ là một quân
nhân, không làm chính trị.” Quân cảnh liền còng tay tôi, tôi ngồi chờ trước cửa
văn phòng ông Dương Văn Minh. Tôi tự hỏi: Sẽ chung số phận với Lê Quang Tung, Hồ
Tấn Quyền chăng? Ông Tôn Thất Đính bước ra can thiệp mở còng cho tôi. Hôm sau,
tôi được thả nhưng bị quản thúc tại gia ở đường Ngô Quyền, Chợ Lớn. Lối một tuần
sau, tôi về chờ lệnh tại Bộ Tổng Tham Mưu. Tôi vô cùng chán nản, không tha thiết
ở lại Quân đội vì tình huynh đệ chi binh không còn nữa, anh em một nhà giết hại
lẫn nhau. Nếu có lệnh đẩy tôi làm tùy viên quân sự tại Lào, tôi chấp nhận ngay.
Vientiane là nơi tôi ra đời. Tên tôi, Viên, là vần đầu tiên của thủ đô Vientiane
.
Một hôm, trong khi ngồi rầu tại văn phòng, tôi bổng nhận được cú điện thoại của
vợ tôi. Bà hỏi: “Buồn lắm hả?” Nước mắt tôi tự nhiên trào lên. Vợ tôi tiếp: “Nếu
‘người ta’ đưa anh trở lại chỉ huy nhảy dù, anh chịu không?” Tôi nghẹn lời vì
không thể tin được. Do sự dàn xếp sao đó mà tôi không được biết giữa vợ tôi và
bà Trần Thiện Khiêm (hai người thân thiết với nhau), tôi nhận được sự vụ lệnh,
ordre de mission, của tướng Khiêm, Tham mưu trưởng Liên quân, đưa tôi về nắm lại
Nhảy dù. Ông Khiêm cho tôi biết mật rằng đây là một quyết định riêng của ông,
chắc sẽ gặp phản ứng vì không hỏi ý kiến cấp trên. Đúng vậy, việc bổ nhiệm chính
thức bằng một công vụ lệnh, ordre de service thuộc thẩm quyền Tổng tham mưu
trưởng Quân đội. Một thời gian ngắn sau, ông Khiêm mất chức Tham mưu trưởng Liên
quân, bị đổi về chỉ huy Quân đoàn 3. Vài ngày trước 30.1.1964, Khiêm điện thoại
kín cho tôi, hỏi: “Sẵn sàng chưa?”. Đây là ám hiệu hành động. Đêm 30 tháng
giêng, lữ đoàn dù của tôi giúp hai trung tướng Nguyễn Khánh và Trần Thiện Khiêm
chỉnh lý phe Dương Văn Minh. Việc “hốt” các tướng “trung lập” thực hiện dễ như
trở bàn tay. Không đổ máu, không tốn một viên đạn vì sau 1.11.1963, các tướng
này đều dùng quân dù của tôi để canh gác nhà họ. Thật như “gởi trứng cho ác!”
Việc tôi giúp ông Khiêm là chuyện dĩ nhiên, để đáp ơn “thả hổ về rừng”. Tôi
không để ý đến điểm Minh, Đôn, Đính, Xuân và Kim có thật sự chủ trương trung lập
hay không.
LLT: Ai ra lệnh giết anh em Tổng thống Diệm? Ai thi hành lệnh ấy?
CVV: Chính tướng Dương Văn Minh đã ra lệnh giết hai ông Diệm và Nhu.
Nguyễn Văn Nhung, vệ sĩ của Minh, thăng Thiếu tá sau vụ ám sát, có nhiệm vụ thi
hành lệnh dưới sự giám sát của hai tướng Mai Hữu Xuân và Nguyễn Văn Quan (người
thay Đổ Mậu trong chức Tổng giám đốc An ninh Quân đội). Nhung bị An ninh Quân
đội bắt trong vụ chỉnh lý nói trên và đem về giam tại Lữ đoàn dù của tôi. Hôm
sau, tôi được phúc trình Nhung đã tự treo cổ bằng một sợi dây giày nhà binh. Có
lẽ vì Nhung biết không tránh khỏi tử hình nếu bị giải ra trước Toà vì Nhung phạm
quá nhiều tội ác.
LLT: Trong hồi ký “ Vietnam. Histoire secrète d’une victoire perdue” (nxb
Perrin, Paris, 1986), giám đốc CIA William Colby xác nhận kế hoạch Ấp Chiến
Lược, Strategic Hamlets (mà ông Ngô Đình Nhu là cha đẻ) làm Bắc Việt khiếp đảm
vì rất hữu hiệu. Đúng như vậy không? Vì sao Hội đồng Cách Mạng lại hủy bỏ kế
hoạch ấy?
CVV: Kế hoạch Ấp Chiến Lược là một việc phải làm để tách CS ra khỏi nhân
dân, tách cá khỏi nước, như đã từng thí nghiệm tốt ở Mã Lai với tướng Robert
Thompson. Tại VN, có những sơ sót trong việc thi hành bởi một số tỉnh trưởng dàn
cảnh, để lấy điểm với thượng cấp. Thay vi chỉnh đốn lại để tăng hiệu lực, Dương
Văn Minh và HĐCM đã hấp tấp hủy bỏ kế hoạch Ấp Chiến Lược liền sau vụ đảo chính
vì lý do họ thù ông Nhu. Họ thay vào đó cái mà họ gọi là Ấp Tân Sinh. Đây là một
lỗi lầm ghê gớm. Tôi không biết rõ họ đã thảo luận với nhau ra sao. Lữ đoàn dù,
do tôi chỉ huy lúc đó, bị nghi trung thành với ông Diệm nên không được hành
quân, chỉ được giao làm những công tác vớ vẩn tại vùng Long An, Mỹ Tho.
LLT: Nếu so sánh TT Diệm với TT Thiệu thì ai độc tài hơn ai? Xin so sánh
hai đảng Cần Lao (của ông Diệm) và Dân chủ (của ông Thiệu).
CVV: Mỗi người độc tài theo cách riêng. TT Diệm cai trị nước như một quan
lại của thời quân chủ, ông bẩm sinh chống cộng, tự ban cho mình “thiên mạng” cứu
nước. Có lẽ anh còn nhớ vụ ông tỉnh trưởng Bình Tuy săn được một con hà mã, dấu
cái sừng tê giác, không khai báo. Khi hay được, cụ Diệm nổi trận lôi đình, cách
chức và đòi giam viên tỉnh trưởng về tội “tẩu tán tài sản Nhà nước.”
TT Diệm tự hào về dân tộc, tự đại về gia đình, thích độc thoại, không chấp nhận
dễ dàng sự chỉ trích. Ông chủ trương “tiết trực tâm hư.” nhưng bị ảnh hưởng nặng
của gia đình. Còn ông Thiệu thì theo đường lối “độc tài trong dân chủ”, vỏ ngoài
dân chủ nhưng bên trong chi phối cả hai ngành lập pháp và tư pháp. Bàn tay sắt
trong đôi găng nhung.
Vì không vững kiến thức như ông Diệm, ông Thiệu chịu khó thăm dò ý kiến của các
chuyên viên, lắng nghe, đúc kết lại để quyết định một mình. TT Diệm dễ tin người
xu nịnh nên dễ bị phản trắc. Ông Thiệu đa nghi Tào Tháo và không e ngại ban phát
ân huệ để tạo phe cánh và chia rẽ đối phương như ông đã làm tại Quốc hội. Ông
chủ trương “làm chính trị phải lì”. Bởi thế TT Thiệu “lật” ông Kỳ không khó và
tồn tại lâu hơn TT Diệm nhưng ông không khí khái bằng ông Diệm. Ông Thiệu mưu
sĩ, ông Diệm đạo đức. Những năm tại chức, Ông Thiêu bị ám ảnh bởi cái chết của
TT Diệm. Đảng Cần Lao - dựa vào thuyết Cần Lao Nhân Vị - tổ chức quy củ hơn, với
sự chỉ huy trực tiếp của hai ông Nhu và Cẩn, đi sâu vào Quân Đội với các quân
ủy, như CS. Đảng Dân chủ yếu hơn, không dựa vào cương lĩnh vững chắc nào, chỉ có
hình thức, được ông Thiệu thành lập để củng cố địa vị, không có ảnh hưởng trong
Quân đội và quần chúng. Tôi không có gia nhập Đảng Cần Lao.
Theo tôi được biết, vào giờ phút chót tháng 11.1963, TT Diệm cho đại sứ Cabot
Lodge biết ông sẳn sàng điều đình một giải pháp nhưng đã quá trể, phe chủ trương
“diệt Diệm” trong Bộ Tham mưu của John Kennedy thắng thế. Les dés sont jetés!
Les jeux sont faits!
LLT: Trong hồi ký Our Endless War và Việt Nam Nhân chứng, tướng Trần Văn
Đôn ghi rằng trong tất cả các vụ chính biến ở Miền Nam từ 1960 trở về sau, đại
tướng Trần Thiện Khiêm đóng vai trò chủ động, giựt dây sau hậu trường, điều này
có đúng hay không?
CVV: Tôi không biết rõ. Tôi chỉ liên hệ với tướng Khiêm về công vụ. Chúng
tôi quen nhau từ hồi còn ở trong Quân đội Pháp, sau khi tôi ra trường Võ bị Cap
Saint Jacques, Vũng Tàu, năm 1949. Vợ tôi là bạn thân của bà Khiêm. Ông Khiêm có
lần tuyên bố không thích chính trị. Nhưng nói và làm là hai chuyện khác biệt!
LLT: Nới trang 428-429 của hồi ký “Việt Nam Nhân Chứng” (nxb Xuân
Thu,1989), tướng Trần Văn Đôn viết: “Có lần ông Thiệu than phiền ông Cao Văn
Viên không làm việc nhiều. Ông Thiệu nhờ tôi nói với Đại tướng Viên, Tổng Tham
Mưu trưởng, về việc ông này cứ ở mãi Tổng Tham mưu làm việc, không chịu đi ra
ngoài, ông Viên trả lời: Tôi đã xin từ chức mấy lần mà ông Thiệu không chấp nhận
nên tôi cứ ở văn phòng làm việc mà thôi!” Mặt khác, trong quyển hồi ký “Đôi dòng
ghi nhớ” nêu trên, cựu đại tá Phạm Bá Hoa cũng có nhận xét rằng trong gần 9 năm
rưỡi giữ chức Tổng Tham Mưu trưởng - chức vụ quan trọng bậc nhất trong Quân đội
- anh đã nhiệt tình hoạt động 7 năm đầu nhưng hai năm sau cùng, vị “Nguyên soái”
của Quân đội Miền Nam không cáng đáng hết trách nhiệm, đến văn phòng cho có lệ,
tập luyện yoga và đi học lấy bằng cử nhân văn khoa ngoài giờ làm việc. Mong anh
đại tướng vui lòng, nếu tiện, giải thích thái độ.
CVV: Tôi sẵn sàng trả lời. Trước khi cuộc đàm phán tại Paris tiến đến
giai đoạn kết thúc năm 1973, tình hình quân sự thêm căng thẳng. Tổng thống
Thiệu, với tư cách Tổng tư lệnh Quân đội, tập trung hết quyền bính trong tay,
cho đặt một hệ thống máy truyền tin tại Dinh Độc lập để liên lạc thẳng với các
quân khu, điều động các đơn vị, bổ nhiệm tư lệnh vùng và ra lệnh trực tiếp hành
quân. Bộ Tổng Tham Mưu lần hồi bị dồn vào vai trò tuân hành và thị chứng. Bộ
Quốc phòng chỉ còn là hộp thơ giữa Tổng thống và Bộ Tổng tham mưu. Vì không có
điều kiện làm việc được như trước, tôi đã năm, sáu lần vô đơn xin từ chức. Ông
Thiệu yêu cầu tôi nán lại, đợi người thay thế nhưng ông không quyết định. Tôi
không có quyền bỏ ra đi một cách vô trách nhiệm.
Tuy nhiên khi Tổng thống Trần Văn Hương nhường ghế cho tướng Dương Văn Minh
tháng 4.1975, tôi cương quyết xin giải ngũ vì tôi không phục ông Minh từ lâu,
tôi từng là nạn nhân của ông Minh. TT Hương chấp nhận đơn của tôi. Ngày
27.4.1975, tôi rời VN trong tình trạng hợp lệ.
Vấn đề tôi tập luyện yoga và thiền có một lý do riêng. Khi giữ chức tư lệnh nhảy
dù, tôi vướng phải một bệnh nan y về khớp xương, một loại phong thấp nặng, gây
nhức nhối vô cùng. Tôi giữ kín việc này, tìm cách tự trị liệu. Là chỉ huy nhảy
dù mà bệnh hoạn, không nhảy được thì coi kỳ quá, không còn gì thể thống. Tôi đã
thử đủ thứ thuốc Tây lẫn Ta, mọi thứ dược thảo, nhân điện, dưỡng sinh, tổ ong
chính gốc, v.v.., Tôi đã lợi dụng một cuộc viếng thăm chính thức Đài Loan để tìm
hiểu khoa châm cứu. Bệnh tình không thuyên giảm với thời gian, với tuổi tác.
Về chuyện đi học văn khoa, môn tôi thích từ lúc còn trẻ, tôi thấy cần trau dồi
thêm kiến thức. Đó cũng là một lối thoát khỏi những chuyện bực bội của cuộc sống
căng thẳng hằng ngày.
LLT: Anh nghĩ gì về vụ Phật giáo chống TT Diệm năm 1963? Về vụ Phật gíáo
nổi loạn ở Miền Trung đầu 1966? Vai trò của Hoa kỳ trong hai vụ? Tại sao Hoa
Thịnh Đốn có thái độ khác nhau trong hai trường hợp? Theo Trần Văn Đôn (hồi ký
VNNC, trang 372) thì trong vụ thứ hai, có trên 200 người chết và bị thương, lối
6.000 quân nhân đào ngũ và một số người chạy vào chiến khu Việt cộng. Có đúng
như thế hay không?
CVV: Phật giáo thống nhất hơn khi chống ông Diệm, vai trò của Thích Trí
Quang quá rõ. Có tay Hoa kỳ và CS nhúng vào. Trong vụ Phật tử dấy loạn ở Miền
Trung, Phật giáo chia làm hai khối Ấn Quang (Thích Trí Quang, chống Chính phủ)
và Vĩnh Nghiêm hay VN Quốc Tự (Phật giáo Bắc Việt di cư với Thích Tâm Châu, thân
Ủy ban lãnh đạo Thiệu Kỳ). Mặt khác, một số tư lệnh Quân đoàn 1 có cảm tình với
phiến loạn như Nguyễn Chánh Thi, Tôn Thất Đính, trong khi Nguyễn Văn Chuân và
Huỳnh Văn Cao thì lừng khừng. (Cao và Đính chạy vào Bộ Tư lệnh Thủy Quân Lục
chiến Mỹ ở Đà Nẳng xin tị nạn chính trị). Vì thế có một lúc Miền Trung gần như
không có Chính phủ: Thị trưởng Đà Nẳng, Bs Nguyễn Văn Mẫn, cũng như đa số quân
nhân, công chức,… tuân lệnh của tăng ni đem bàn thờ Phật xuống đường biểu tình.
Phong trào có nguy cơ lan tràn xuống Miền Nam, làm tiêu chế độ. Tướng Kỳ, chủ
tịch Ủy ban Hành pháp Trung ương, xin tôi (lúc đó Tổng Tham mưu trưởng) đổ quân
tái chiếm Đà nẳng, mặt khác yêu cầu tôi cấp gần 20.000 cây súng cũ của Pháp
(Mass 36, tiểu liên, lựu đạn...) cho Nguyễn Ngọc Loan, TGĐ Công an - Cảnh sát,
hầu võ trang các đảng phái ở Miền Trung lập thăng bằng với lực lượng Phật giáo.
Tôi đề nghị để tướng Loan hành động trước. Hai tuần sau, tình hình thêm nguy
kịch. Tôi quyết định can thiệp. Theo lối của tôi: tương kế tựu kế. Lúc đó, tôi
có một tiểu đoàn thủy quân lục chiến đang hành quân tại Bình Định. Tôi ra lệnh
chính thức cho đơn vị này tập trung đúng ngày, giờ ấn định, tại sân bay Quảng
Ngãi nói là để không vận về Sàigòn, thay bằng một tiểu đoàn khác. Phải dùng mưu
ấy để đánh lạc hướng Viện Hoá Đạo có người gài khắp nơi. Đêm hôm đó, đúng 12
giờ, tôi đưa thêm 4 tiểu đoàn khác nhập chung với tiểu đoàn có sẵn, thành 5,
giao cho đại tá Ngô Quang Trưởng chỉ huy, tràn vô các chùa bắt các phần tử nguy
hiểm, giải tán bằng biện pháp mạnh các ổ dân quân, buộc họ buông súng. Cuộc hành
quân cương quyết này đã đem lại kết quả. Trong hồi ký “The Buddha’s Child”,
Nguyễn Cao Kỳ ba hoa dành hết công trạng về mình.
Tôi không thể xác nhận với anh về những thiệt hại sinh mạng. Con số của tướng
Đôn đưa ra có vẻ quá đáng. Dù sao, Hoa Thịnh Đốn không lên tiếng phản đối như đã
làm thời TT Diệm. Về phía Hoa kỳ, cần ghi rằng ông tổng lãnh sự Mỹ tại Đà Nẳng
nghiêng theo phía Phật giáo, trong khi toà Đại sứ Mỹ tại Sàigòn giữ thái độ thận
trọng wait and see, nếu không nói đồng ý ngầm với Ủy Ban Lãnh đạo quốc gia. Thật
vậy, năm 1963 đại sứ Cabot Lodge ra mặt ủng hộ Phật giáo vì TT Diệm chống việc
Mỹ hóa chiến tranh. Năm 1969, tình hình thay đổi, Hoa kỳ cần giữ lại ê-kíp Thiệu
Kỳ và bắt đầu Việt nam hoá cuộc chiến. Từ đồng minh, cánh Phật giáo thiên tả đã
biến thành đối lập với Mỹ.
Kết luận
Trên đây là những đoạn - buồn nhiều hơn vui - trích từ bộ VCR mạn đàm với đại
tướng Cao Văn Viên. Phần còn lại, không kém hệ trọng, sẽ phổ biến khi thuận
tiện. Với một nụ cười mệt mỏi, hơi thở phều phào, (vì lúc ấy sức khoẻ của ông đã
rất suy kém, thân hình của ông co rút lại), Tướng Viên - một sĩ quan có tiếng
“bô trai” trong Quân đội, - kết thúc bằng một câu nói khiêm nhường: “Xin đừng
xem những lời của tôi là lịch sử. Mỗi người giải thích sự thật theo lối riêng,
như trong phim “Rashomon”. Một trăm chứng nhân, một trăm sự thật. Định kiến làm
cho lịch sử sai lệch. Tôi chỉ tâm tình với lòng thành. Hảy để cho hậu thế lượng
định và phân xét. Chưa thấy quan tài, chưa đổ lệ” .
Đại tướng Cao Văn Viên sẽ lưu lại trong ký ức các người từng biết ông - thân
hữu, bạn đồng đội như kẻ bất đồng ý kiến - hình ảnh của lòng chung thủy, “trước
sau như một”, không a dua, không phản trắc, từ tốn khi phê bình, chủ trương đoàn
kết trong tình huynh đệ chi binh. Ông không bon chen trên chính trường, không
đạp trên xác đồng đội để tiến thân. Ông là một nhà tướng phi chính trị bị thời
thế cuốn hút vào chính trường gió tanh mưa máu. Khi hai địch thủ Thiệu, Kỳ dành
giựt với nhau cân đai, áo mão, Hội đồng Quân lực định đưa ông Viên lên chức Quốc
trưởng vì ông là vị tướng có thâm niên nhứt. Ông đã một mực từ chối vì nhận thức
lương thiện khả năng của mình. Tuy nhiên ông vẫn không tránh được số phận một
con thiêu thân - trong vô số con thiêu thân khác - bị chiến tranh Việt Nam đốt
cháy.
Thủy Hoa Trang, Ngày 27.1. 2006 Xuân Bính Tuất
Lâm Lễ
Trinh
* * * * * *
Cao Văn Viên (1921-) là một trong 5 người được phong hàm
Đại tướng
Quân lực Việt Nam Cộng hòa. Ông cũng là
vị tướng giữ chức vụ Tổng Tham mưu trưởng của quân lực này trong thời gian lâu
nhất (1965-1975).
Cuộc đời binh nghiệp
Ông sinh ngày
11 tháng 12 năm
1921 tại
Lào. Năm 1949, ông tham gia quân đội Pháp
và được đưa đi học khóa đào tạo sĩ quan người Việt tại trường Võ bị Cap Saint
Jacques (Vũng
Tàu), tốt nghiệp với quân hàm Thiếu Úy. Sau khi tốt nghiệp, ông
được điều về công tác tại bộ tham mưu quân đội Quốc gia Việt Nam. Năm 1953, ông
được nhận công tác chỉ huy của địa phương quân, khu vực Hưng Yên, lần lượt chỉ
huy các tiểu đoàn 10, tiểu đoàn 56 thuộc vùng III.
Sau khi chế độ
Việt Nam Cộng hòa được thành lập, ông được
điều về công tác tại Phòng 4 (Tiếp vận) thuộc Bộ Tổng tham mưu vừa được thành
lập, hàm
Thiếu tá. Năm 1956, ông được cử làm Tham
mưu trưởng Biệt bộ Phủ Tổng thống, hàm
Trung tá. Năm 1960, ông được thăng Đại
tá, cử làm tư lệnh Lữ đoàn Dù thay
Đại tá
Nguyễn Chánh Thi vừa đào tẩu do đảo chính
thất bại vào ngày
11 tháng 11 năm
1960.
Trong cuộc đảo chính
1 tháng 11 năm
1963, ông là một trong những số ít sĩ quan
cao cấp trung thành với Tổng thống
Ngô Đình Diệm, kiên quyết không đứng về phe
đảo chính do các tướng lĩnh
Dương Văn Minh,
Trần Văn Đôn,
Tôn Thất Đính,
Mai Hữu Xuân,
Lê Văn Kim tiến hành. Vì vậy ông bị các
tướng lĩnh tước quyền chỉ huy Lữ đoàn Dù. Tuy nhiên do sự can thiệp của tướng
Tôn Thất Đính nên ông chỉ bị cách ly mà không rơi vào số phận bi thảm như các
Đại tá
Hồ Tấn Quyền và
Lê Quang Tung.
Đầu năm 1964, tướng
Nguyễn Khánh thực hiện cuộc chỉnh lý để
giành quyền lực. Để tranh thủ sự ủng hộ của các sĩ quan trẻ, tướng Nguyễn Khánh
đã thăng ông lên quân hàm
Chuẩn tướng (vừa được đặt ra) và bổ nhiệm
ông vào chức vụ Tham mưu trưởng của Bộ Tổng tham mưu. Tháng 10 năm đó, ông được
điều động vào chức vụ Tư lệnh Quân đoàn III, hàm
Thiếu tướng.
Sau cuộc chính biến của các tướng trẻ gạt bỏ tướng Nguyễn Khánh khỏi chính
quyền, ông được thăng quân hàm
Trung tướng và được cử vào chức vụ Tổng
Tham mưu trưởng vào ngày 14 tháng 10 năm 1965, thay tướng
Nguyễn Hữu Có (kiêm nhiệm). Năm 1967, khi
tướng Nguyễn Hữu Có bị bãi chức, ông kiêm nhiệm chức vụ Tổng trưởng Quốc phòng
trong thời gian ngắn. Cũng trong năm này, ông được thăng quân hàm
Đại tướng.
Trong suốt thời gian giữ chức vụ Tổng tham mưu trưởng, ông được đánh giá là một
tướng lĩnh có tài và không liên quan đến các hoạt động chính trị. Tuy nhiên, ông
cũng bị đánh giá là một người an phận và không muốn tạo trách nhiệm.
Hồi ký "Việt Nam Nhân Chứng" của tướng Trần Văn Đôn viết: "Có lần ông Thiệu
than phiền ông Cao Văn Viên không làm việc nhiều. Ông Thiệu nhờ tôi nói với Đại
tướng Viên, Tổng Tham Mưu trưởng, về việc ông này cứ ở mãi Tổng Tham mưu làm
việc, không chịu đi ra ngoài, ông Viên trả lời: Tôi đã xin từ chức mấy lần mà
ông Thiệu không chấp nhận nên tôi cứ ở văn phòng làm việc mà thôi!"
Trong hồi ký "Đôi dòng ghi nhớ" của cựu đại tá
Phạm Bá Hoa, chánh văn phòng Tổng tham
mưu trưởng, cũng nhận xét là trong gần 9 năm rưỡi giữ chức Tổng Tham Mưu trưởng,
ông không thực sự làm hết trách nhiệm, đến văn phòng cho có lệ, ít ra chiến
trường, đặc biệt là vào những năm 1973-1975, ông chỉ còn chú trọng nhiều đến
việc tập luyện
yoga và thậm chí, đi học lấy bằng Cử nhân
Văn chương Pháp tại
Đại học Văn khoa Sài Gòn ngoài giờ làm
việc.
Lý giải sự việc này, theo cuộc phỏng vấn của Lý Thanh Tâm tháng 12 năm 2004, ông
cho rằng do Tổng thống Thiệu, với tư cách Tổng tư lệnh Quân đội, đã tập trung
hết quyền binh trong tay, đã cho đặt một hệ thống máy truyền tin tại dinh Độc
lập để liên lạc thẳng với các quân khu, điều động các đơn vị, bổ nhiệm tư lệnh
vùng và ra lệnh trực tiếp hành quân. Bộ Tổng Tham mưu chỉ còn giữ vai trò tuân
hành và thị chứng. Do đó, ông đã nhiều lần xin từ chức nhưng không được chấp
thuận. Vì vậy ông chỉ có thể phản ứng bằng cách tiêu cực như trên.
Năm 1975, trước sức ép mãnh liệt của dư luận và áp lực quân sự của quân Cộng
sản, Tổng thống Nguyễn Văn Thiệu phải từ chức. Cũng không lâu sau đó, tướng Cao
Văn Viên cũng từ nhiệm vào ngày 27 tháng 4 năm 1975, khi chưa có quyết định
chính thức của tân tổng thống
Trần Văn Hương. Ông giao việc xử lý thường
vụ lại cho
Trung tướng
Đồng Văn Khuyên và lên máy bay di tản
sang Mỹ.
Sau 1975, ông sống bình lặng tại
Arlington, Virginia.
Nguồn:
http://vi.wikipedia.org/wiki/Cao_V%C4%83n_Vi%C3%AAn
Tác phẩm:
The Final Collapse
Publisher: University Press of the Pacific (January 30, 2005)
Language: English
ISBN-10: 1410219550
ISBN-13: 978-1410219558
Bản Việt Ngữ: Những Ngày Cuối Của VNCH - Tác giả: Cao Văn Viên - Dịch giả:
Nguyễn Kỳ Phong . NXB VN Bibliography. Virginia: 2003.
"Tướng Viên liên tục thay mặt gần một thập niên chính phủ VNCH để bàn thảo về
chiến lược quân sự chống Cộng sản với các tư lệnh đồng minh Mỹ, từ Paul Harkins,
William Westmoreland, Creighton Abrams cho đến Frederic Weyand. Trong vị thế ấy,
ĐT Viên có dịp thu thập kinh nghiệm quý báu về cuộc chiến không quy ước giữa Nam
và Bắc Việt, một cuộc chiến trong đó Hànội chủ trương đấu tranh toàn diện, khai
thác tối đa tuyên truyền, đẩy mạnh dân vận và đột nhập dưới vĩ tuyến 17, bất
chấp các Hiệp ước ký kết.
Công việc viết lại The Final Collapse vừa hoàn tất, sách sắp xuất bản một ngày
gần đây. Điều an ủi trong hiện tại là The Final Collapse được dịch giả Nguyễn Kỳ
Phong chuyển ngữ qua tiếng Việt năm 2003 dưới tên Những Ngày Cuối của VNCH (nhà
xuất bản VN Bibliography, Virginia) gồm có 10 chương, 295 trang và một số chú
thích của tướng Viên. Theo tác giả tâm sự với người viết, The Final Collapse
không thể đề cập đầy đủ đến mọi sự việc vì bị giới hạn trong phạm vi sử dụng các
sử liệu, một số lớn chưa được Ngũ Giác Đài, Nga, Tàu và chính quyền Bắc Việt
giải mật vào năm 1983." (Lâm Lễ Trinh)
Việt
Nam Cộng Hòa Muôn Năm
View and sign Guestbook
Xin vui lòng lưu bút tưởng niệm đến các vị Anh Hùng của QLVNCH
và các đồng bào nạn nhân
đã bị cộng sản sát hại tại Huế.
Please visit and sign our
guestbook to
honor the ARVN Heoes
and to remember the thousands of
civilians murdered in Hue City in 1968.
since
Memorial Day 1999
|