Người CS Có Phải Là Người VN Hay Không?
Tác giả: Thiện Chí Nhân
Mới thoát nhìn, tựa của bài viết này có vẻ không ổn, người Cộng Sản Việt Nam
(CSVN) dù là thiên thần hay ác quỷ, là người Việt chớ còn là người gì nữa. Họ
không nói riêng Việt sao ? Họ không ăn cơm bằng đũa, không ăn canh chua, cá kho,
húp nước mắm sao ?
Đúng là nhìn bề ngoài người CSVN là người của dân tộc Việt. Nhưng khi khảo sát
kỹ hơn chúng ta thấy một nghịch lý trong muôn ngàn nghịch lý chứa đựng trong thế
giới Cộng sản nói lên những con người gọi là Việt nhưng không phải là Việt. Thật
là một chuyện kỳ cục mà người Pháp trong thế kỷ 19, thời vàng son của đế quốc
thực dân Tây phương, dùng chữ chinoiserie để nói lên một chuyện lẩm cẩm đồng
thời để mạt sát "các chú con trời."
PHI TÔN GIÁO
Từ khi con người xuất hiện trên quả đất và khi họ ý thức được sự hiện hữu con
người cũng ý thức được rằng sự đau khổ đi liền với nhân phẩm con người như bóng
với hình. Từ đó ước mơ được thoát khỏi sự đau khổ đã ám ảnh con người ở mọi thời
đại. Khát vọng được gặp một đấng cứu rỗi dẫn dắt ra khỏi đau khổ là ý nghĩ quan
trọng nhất của con người, có lẽ còn khẩn thiết hơn cơm ăn áo mặc.
Hai tôn giáo lớn nhất của loài người đã đáp ứng lại nhu cầu muốn được cứu rỗi
khỏi cảnh khổ trần gian của con người với sự hứa hẹn của cảnh giới thiên đàng
của Thiên Chúa Giáo, với Niết Bàn của Phật Giáo.
Đức Giê Su và Đức Thích Ca đã giảng dạy cho con người làm thế nào để thoát khỏi
cảnh khổ đau trần thế. Lời dạy của các ngài đã được đồ đệ ghi chép và trở thành
giáo lý căn bản mà tín đồ thuần thành phải tuyệt đối tuân theo nếu muốn đạt được
mục tiêu diệt khổ.
Thời phục hưng Thomas More, vị tể tướng của vua Henri VIII nước Anh cho xuất bản
cuốn Utopia (Nơi Không Tưởng) năm 1526. Quyển sách này tạo cho More một
chỗ đứng độc nhất, một tiền bối trong truyền thống Xã Hội Chủ Nghĩa (XHCN) dù là
tể tướng More, đã bất lực nhìn cảnh bất công trong xã hội Anh. Giới quý tộc ăn
không ngồi rồi, bọn buôn vàng (tương đương với chủ ngân hàng thời nay) cho vay
nặng lãi, làm chủ phần lớn tài sản xã hội, trong lúc đó những người tạo ra tài
sản cho xã hội là người lao động thì làm việc quần quật suốt đời mà vẫn sống
trong cảnh
nghèo túng. Luật lệ chỉ là công cụ để hợp pháp hoá tình trạng bất
công đó.
More chưa tìm ra được giải pháp nào để chấm dứt bất công. Ông ta đành ghi chép
mơ ước của mình lên mặt giấy bằng cách mô tả cuộc sống trong một xã hội lý tưởng
ở một địa điểm tên là đảo Utopia, nơi đó loài người không còn biết đến đau khổ
nữa . Xã hội lý tưởng hay là thiên đàng hạ giới này là một xã hội công bằng dựa
trên sự bình đẳng tài sản. Mọi người dân đều làm việc hết sức mình vì thích và ý
thức trách nhiệm đối với cộng đồng. Tất cả nhu cầu vật chất của con người được
xã hội cung cấp dư thừa. Mọi người đều bình đẳng về tài sản, không có tài sản
riêng tư hay đúng ra tài sản riêng tư không có nghĩa lý gì trước sự dư thừa vật
chất. Đời sống cá nhân được xã hội bảo đảm từ khi mới sinh ra đến khi chết. Xã
hội không có tội ác vì không có nghèo đói và mọi người sống trong hoà bình.
Thật là tốt đẹp, hấp dẫn đối với cái biển người đau khổ trên thế giới. Nếu có
thiên đàng như lời Chúa dạy thì đời sống từ đó không khác gì ở đảo Utopia.
Thế kỷ 19 mở đầu với suy tàn của đế quốc Nã Phá Luân.
Chiến tranh không còn là nỗi ưu tư hàng đầu của những quốc gia Âu
Châu. Khi sức mạnh hơi nước được áp dụng vào công nghiệp, sự sản xuất quy mô
hàng hoá gọi là cách mạng công nghiệp bắt đầu trong thế kỷ 18 đã là một bước
nhảy vọt vào giữa thế kỷ 19. Các nước tiền tiến như Pháp, Anh, Phổ (sau trở
thành nước Đức) đã lao vào con đường kỹ nghệ hoá bằng mọi giá, không cần lưu tâm
đến vấn đề ô nhiễm môi sinh, hố phân cách giàu nghèo, tệ nạn xã hội.
Đây là giai đoạn phát triển của tư bản rừng rú. Các chủ nhân ông xí nghiệm chỉ
quan tâm đến hai chữ lợi nhuận, làm sao thu được lợi nhuận cao nhất,
thân phận của người thợ, người làm ra sản phẩm thì ra sao cũng mặc.
Hoàn cảnh phát triển đó đã tạo ra hai giai cấp với quyền lợi đối nghịch nhau:
giai cấp những ông chủ xí nghiệp được các nhà xã hội học gọi là giai cấp tư bản
và giai cấp những người làm công hay là giai cấp lao động
Trong khi những ông chủ sống cuộc đời vật chất qua đầy đủ dư thừa thì người lao
động làm cật lực có khi không đủ ăn, nhà ở thường là khu ổ chuột. Lương tâm con
người không chấp nhận cảnh bất công đó. Một loạt các nhà xã hội học Pháp và Anh
đưa ra những giải pháp để chấm dứt những bất công, tạo bình đẳng xã hội Trong số
đó, một gương mặt nổi bật là Karl Marx chê tất cả những nhà xã hội học trước và
cùng thời với ông là những người không tưởng hay nói trắng ra những người đó chỉ
nói nhảm. Chỉ có ông mới xứng đáng là người cứu rỗi cho giai cấp bị bóc lột với
lý thuyết duy vật biện chứng lịch sử hay là duy vật sử quan.
Chắc chắn Marx không có mộng tưởng làm giáo chủ một tôn giáo vì thuyết duy vật
cửa ông ta xem tôn giáo là đồng minh của các tay tư bản bốc lột. Tuy nhiên sự ra
đời của tư tưởng Marx hay là ý thức hệ Mác Xít cho đến khi đảng Bolchevick của
Lenine cướp được chính quyền ở Nga tháng 11 năm 1917, sự xuất hiện đảng cộng sản
tiếp theo đó là một thực thể siêu quốc gia gọi là Liên Bang Xô Viết, tất cả biến
cố đó đúng là một tiến trình hình thành một tôn giáo. Trong tiến trình này trước
tiên phải có một nhân vật cá tính mạnh mẽ khác hơn người thường được tín đồ đời
sau xem là giáo chủ như đức Giê Su và đức Thích Ca vì các vị này đưa ra sự cứu
rỗi con người khỏi cảnh khổ đau. Với những người chấp nhận lý thuyết Mác Xít và
đảng viên cộng sản, Marx được tôn lên địa vi tương tự một giáo chủ vì Marx cũng
đưa ra sự cứu rỗi nhưng thay vì chỉ cho con người đến những bến bờ xa xôi như
Thiên Đàng hay Nát Bàn Marx đã chỉ phương cách để đến một thiên đàng vật chất
ngay tại thế gian là xã hội cộng sản.
Khi có giáo chủ phải có bước kế tiếp là giáo lý hay là những lời giảng dạy của
giáo chủ khi còn tại thế. Những lời giảng dạy đó về sau được tín đồ thu gom, hệ
thống hoá lại trong những bộ sách gọi là kinh thánh hay kinh. Những lời giảng
dạy trong kinh là chân lý nên tín đồ tuyệt đối tin theo. Danh từ giáo điều và
tánh chất giáo điều bắt nguồn từ sự bắt buộc tin tưởng tuyệt đối đó.
Hai chữ giáo điều không phải là trò chơi vô thưởng vô phạt của các nhà thần học.
Nó biểu lộ tánh chất khắc nghiệt trong đời sống thực tế. Có khi một số giáo dân
thời trung cổ bị các tòa án của giáo hội La Mã đưa lên giàn hoả vì có tư tưởng
hay hành động sai trái với lời dạy trong Thánh Kinh.
Trong thế giới Cộng Sản, lời rao giảng của Marx về sau thêm phần đóng góp của
Lenine gọi là chủ thuyết Mác-Lê biến thành kinh thánh cho người cộng sản thuần
thành bất kỳ ở quốc gia nào trên thế giới. Tánh chất giáo điều của thuyết Mác Lê
cũng không khác gì các tôn giáo khác. Người cộng sản hiểu lệch lạc hay đi sai
đường mà từ ngữ Cộng sản gọi là chệch hướng không bị đưa lên giàn hoả nhưng bị
đối xử khắc nghiệt không kém, như bị một viên đạn vào ót hay là lao động cải tạo
trọn đời.
Có Giáo-chủ, có Giáo-lý với tánh chất Giáo-điều, phải có thêm Giáo-hội và
Giáo-dân mới hoàn thành tiến trình một tôn giáo. Khi xuất hiện Lenine trong thế
giới Mác Xít, nhà dấy loạn thiên tài này đẻ ra một công cụ độc đáo mà thế giới
của loài người gian ác từ cổ chí kim chưa nghĩ ra là Đảng Cộng Sản.
Tất cả bí thư của uỷ ban đảng Cộng sản từ thấp nhất gọi là cơ sở đến trung ương
họp thành giáo hội. Cầm đầu giáo hội là một ông vua không ngai là Tổng bí thư
hay là Giáo chủ và triều đình gồm có các vị đại thần là uỷ viên Bộ chính trị và
các uỷ viên trong ban chấp hành trung ương. Giáo dân của tôn giáo mới này là
đảng viên đảng Cộng sản..
Thế giới cộng sản có đủ bộ phận cấu thành cần thiết để trở thành một tôn giáo
nhưng không vươn lên được ngang hàng một tôn giáo để tồn tại trong chiều dài
lịch sử mà chỉ trụ lại hàng giáo phái (secte) với đời sống phù du chỉ vì sự cứu
rỗi của giáo chủ đưa ra không thực tâm là cứu rỗi. Đó chỉ là một công cụ lừa bịp
lòng cuồng tín của tín tồ để cho một số người cầm đầu giáo hội thủ lợi. Đây là
một giáo phái thuộc về loại tà giáo hay là ma giáo trong tiểu thuyết kiếm.hiệp
Kim
Dung. Những tôn giáo chân chính rao giảng tình thương, giáo phái của
Lenine truyền bá hận thù và khai thác phần ác trong tâm thức con người để dạy
cho giáo đồ sử dụng tội ác để đạt mục tiêu
Chúng ta hãy nhìn kỷ đảng cộng sản của Lenine để xem tập hợp tội ác này có đúng
là Ma Giáo không.
Lenine là một thiên tài về dấy loạn. Ông ta lập Đảng Cộng Sản là một tổ chức của
những người cuồng tín, say mê với chủ thuyết Mác-Lê với chức năng làm cách mạng
XÃ HỘI CHỦ NGHĨA. Đây là những tay dấy loạn chuyên nghiệp lấy sự tranh đấu để
cướp chánh quyền của nhà nước Tư Sản làm lẻ sống. Để đào tạo nên những tay dấy
loạn chuyên nghiệp này, Lenine đã truyền thụ cho họ kỹ thuật dấy loạn mà y đã
nghiền ngẫm lâu dài trong thời kỳ sống lưu vong. Kết quả đạt được là người Cộng
sản thuần thành (xin để qua một bên đám Cộng sản cơ hội) là những tay chuyên về
dấy loạn, những tay đấu tranh, bất kể quân sự hay chính trị cực kỳ lợi hại.
Nhưng sự truyền thụ kỹ thuật đấu tranh chỉ là một phần trong chương trình đào
tạo nên người Cộng sản. Phần quan trọng nhất mà Lenine và các truyền nhân nối
nghiệp đã thành công quá sức mong đợi là tạo nên một con người mới xứng đáng
sống trong thiên đàng Cộng sản tương lai. Đây là một mẫu người độc đáo chưa hề
xuất hiện trong lịch sử loài người Người này với ngoại hình là người Nhật, người
Nga, người Đức v.v.. .. nhưng hoàn toàn khác hẳn với đồng bào của họ về mặt suy
nghĩ và tình cảm. Người mới đó chưa được các nhà nhân chủng học đặt tên. Chúng
tôi gọi họ là Người Cộng Sản (NCS).
Để tạo nên mẫu người mới này các tay phù thuỷ Cộng sản đã dùng kỹ thuật tẩy não
để xóa bỏ bộ phận suy nghĩ cá tính, động thái của con người nói chung thay vào
đó một bộ phận mới khiến cho người này chỉ suy nghĩ, hành động đúng theo phù
thuỷ mong muốn. Cũng nên lưu ý là trong khi xóa bỏ con người với tinh thần cũ,
các phù thuỷ cũng xoá luôn bộ phận gọi là cảm tình trong con người mới . Nói một
cách văn vẻ, những người Cộng sản chỉ có óc nhưng hoàn toàn thiếu một quả tim,
thành ra trong thế giới Cộng sản kiếm đỏ mắt cũng không ra một
chuyện tình nghĩa có thật. Thỉnh thoảng sách báo của văn nô kể lại
thì toàn là chuyện bịa như già Hô ôm hôn thắm thiết các bé con. Cáo Hồ hôn trước
mặt mọi người nhưng có thể cha mẹ đứa bé đã chết trong cãi cách ruộng đất!
Để dễ hiểu tiến trình tẩy não tạo nên con người mới của Cộng sản xin đưa ra đây
tiến trình tạo nên con người mới trong tà giáo Vodoo ở Haiti. Theo truyền
thuyết, các pháp sư trong tà giáo này cho nạn nhân uống một thứ thuốc lá cây bí
mật để y chết đi. Sau đó pháp sư đào mã y lên trong thời gian nào đó, cho uống
một thứ thuốc khác để y sống lại. Người chết đi sống lại này gọi là Zombi, chỉ
còn thể xác, bộ phận tinh thần cũ mất hẳn. Hắn chỉ suy nghĩ và hành động theo
lệnh của pháp sư. Thế là tên pháp sư có một tên
nô lệ tuyệt đối trung thành để làm việc cực nhọc cho y mà không bao
giờ phản kháng vì người Zombi mắt khả năng nhận thức thân phận của mình.
Đảng Cộng Sản hay là giáo hội của một tà giáo cũng y như vậy, đã thành công tạo
nên những con Zombi mang danh là người Cộng sản. Họ đã đưa con người bình thường
qua một tiến trình học tập chính trị và tẩy não. Tiến trình này đúng là một cái
khuôn đúc với đầu vào đầu ra. Ngày xưa báo ở Việt Nam kể một chuyện trong một lò
sát sinh ở Chicago, một con heo được đưa vào dây chuyền sát sinh ở đầu vào, đã
biến thành những khúc xúc xích ở đầu ra.
Một người Tàu, hoặc Cuba hay Việt Nam ở đầu vào qua tiến trình khuôn đúc sẽ trở
thành những con người mới giống hệt nhau về tâm thức ở đầu ra.
Con người gọi là Con Người Mới này, dù thuộc sắc tộc nào trên thế giới đều có
chung những "đức tính" sau đây gọi là "đạo đức cách mạng" (tiếng của Cộng sản).
1- Nói Láo. Dù người Cộng sản là người Việt, Cuba hay Bắc Hàn hoặc một
dân tộc nào khác, khi đã trở thành Cộng sản đều nói láo một cách tự nhiên không
hề biết ngượng là gì.
Ở Việt Nam một trường hợp nói láo mà mãi đến hơn mười năm sau dân chúng Việt Nam
trong lúc trà dư tửu hậu vẫn còn nhắc lại . Năm 1985, trước khi đổi tiền lần thứ
ba, một hôm sau khi nghe dân chúng xầm xì về tin đồn sắp đổi tiền, Phó Thủ tướng
Đỗ Mười lên đài phát thanh quả quyết nhà nước không hề có kế hoạch đổi tiền và
tin đồn là của kẻ xấu đưa ra. Chúng tôi không biết lúc đó Đỗ Mười có thề không !
Hai mươi bốn giờ sau, chánh phủ trong đó có Đỗ Mười ra lệnh đổi tiền.
2-Không Giữ Lời Hứa. Những nhà thương thuyết bên phía tự do phải mất
nhiều năm dài để ký được một hiệp ước với một nước Cộng sản. Hiệp ước vừa ráo
mực đã bị Cộng sản vi phạm Những chánh khách Tây phương phàn nàn tại sao Cộng
sản không tôn trọng lời hứa. Họ không biết đây là một cái mẫu "con người mới".
Muốn cho người Cộng sản thi hành hiệp ước phải biết cái quy luật khuôn vàng
thước ngọc khi giao thiệp với Cộng sản. Quy luật đó nói rằng Cộng sản chỉ thi
hành một hiệp ước nào khi sự thi hành có lợi cho chúng. Quy luật thứ nhì Cộng
sản chỉ thi hành một hiệp ước, thực hiện một lời hứa khi chúng thấy thất hứa sẽ
bị đập cho một đòn nên thân (như đập cây lên đầu cá). Những người Việt hải
ngoại có nhiệt tâm với đất nước chủ trương hoà hợp hoà giải với Cộng sản để
tránh đổ máu vì máu đã đỗ nhiều rồi nên học thuộc lòng quy luật này trước khi
ngồi lại nói chuyện với Cộng sản.
3- Lưu Manh. Lãnh vực này gần như độc quyền với thế giới Cộng sản gồm có
gian xảo lừa đảo lật lọng, lưu manh, thủ đoạn, ăn ngược nói ngạo, đạo đức giả.
Không phải tình cờ khi điểm qua các tên tuổi lớn trong thế giới Cộng sản như
Staline, Mao Trạch Đông, Kim Nhựt Thành, Hồ Chí Minh, Fidel Castro, Pol Pot,
người ta thấy giống nhau như hai giọt nước là tay nào cũng lưu manh.
Tay Cộng sản nào cũng lưu manh. Thiếu "đạo đức Cách mạng" này thì chưa phải Cộng
sản thuần thành hay là Cộng sản thứ thiệt.
Tại Việt Nam, cuốn "Mặt Thật" của Bùi Tín cho thấy Lê Đức Thọ là một tay đại lưu
manh.
Trong cuốn "Đêm Giữa Ban Ngày" bằng lưu manh hạng A phải giành cho Trần Quốc
Hoàn.
Thực ra không phải hai tay nói trên giữ độc quyền lưu manh. Từ Hồ Chí Minh đến
Lê Duẫn, Phạm Hùng, Phạm Văn Đồng, Nguyễn Chí Thanh trong quá khứ đến Đỗ Mười,
Lê Đức Anh, Võ Văn Kiệt, Đào Duy Tùng, Trương Tấn Sang, Lê Khả Phiêu v.v...trong
hiện tại đều lưu manh như nhau không tay nào kém tay nào.
4-Gian ác. Tay Cộng sản nào cũng xem mạng người như cỏ rác nhất là mạng
người gọi là đồng bào của chúng .
Khi nắm được chính quyền tay Cộng sản nào cũng trở thành tên đồ tể giết người
như ngoé không hề bị lương tâm căn rứt vì sau khi qua cái khuôn đúc người của
Lenine, được tái tạo lại tại địa phương của các nước Cộng sản khác, bộ phận
lương tâm đã bị xóa bỏ.
Những tên như Staline, Mao Trạch Đông, Hồ Chí Minh, Pol Pot đều là thủ phạm của
những cái chết hàng triệu người có khi hàng chục triệu như Staline và Mao Trạch
Đông. Trong những tay đồ tể này, người bị thế giới văn minh "bạc đãi" đối xử bất
công nhất là Pol Pot. Tay đồ tể đáng thương này trót lỡ đại giết hai triệu người
Miên thì bị cả thế giới lên án, đòi phải đưa Pol Pot ra tòa án chiến tranh để
trả lời về tội diệt chủng. Còn Mao Trạch Đông khi làm cho vài chục triệu người
Tàu chết đói, chết bằng cán cuốc đập vào ót hay không có gì ăn cũng đều là chết,
trong thời kỳ "Bước tiến nhảy vọt" và "Cách mạng văn hóa" thì thế giới văn minh
không một lời phản đối, hoặc có khi một vài vị tai to mặt lớn bên phái tự do
phản đối lấy lệ. Có gì đâu phải nghĩ, vì tên đồ tể Pol Pot chỉ làm chúa có bảy
triệu người, lên án nó và đưa nó ra tòa không có gì đáng lo và cũng không chết
thằng Tây con nào, nhưng động đến Mao Trạch Đông sẽ có nhiều bất lợi . Nội nghe
tiếng tằng hắng của hắn, một tỷ con người đã rét run lên rồi . Đối với Việt Nam
cũng vậy. Cáo Hồ và Lê Duẫn chỉ cho chết sơ sơ năm triệu người Việt trong chiến
tranh giải phóng Miền Nam (một nước độc tài đi giải phóng một nước tự do ! ),
nếu động đến Cộng sản Việt Nam thì khi vào đầu tư sẽ gặp nhiều khó khăn! Nội bấy
nhiêu đó cũng làm cho thế giới văn minh lạnh cẳng rồi. Đừng quên đạo đức giả là
giá trị phổ biến của loài người văn minh vào cuối thế kỷ 20!
Một điều làm cho người ngoài thế giới Cộng sản thắc mắc tại sao thánh tổ Cộng
sản là Marx đưa ra tư tưởng cứu rỗi cho giới lao động, giới người thấp cổ bé
miệng bị bóc lột hiếp đáp, một hành động tốt của kẻ cứu khốn phò nguy mà đám hậu
sinh lại đào tạo những tay thợ kiến thiết thiên đường tương lai với phần xấu xa
nhất trong tâm thức con người .
Đó là vì nhân sinh quan và thế giới quan của đám phù thuỷ Cộng sản. Đối với bọn
này ai không phải là Cộng sản đều là kẻ thù giai cấp, phải tiêu diệt bằng mọi
phương tiện. Với cái nhìn thế giới bên ngoài như thế, rõ ràng kẻ thù của Cộng
sản quá nhiều. Trong tâm trạng bị bao vây, lúc nào cũng có thể bị tiêu diệt, đám
lãnh đạo Cộng sản cho rằng người Cộng sản muốn thắng kẻ thù quá đông đảo đó phải
dùng kỹ thuật đấu tranh của Lenine phối hợp với phương châm chiến đấu cứu
cánh biện minh phương tiện. Phương tiện nào cũng tốt miễn tiêu diệt được kẻ
thù.
Trong con mắt lý thuyết gia Cộng sản, bọn tư sản ngây thơ không biết khai thác
hết sức mạnh của sự nói láo, lưu manh trong đấu tranh. Nếu bên địch (tư sản)
không sử dụng thì ta sử dụng những thứ đó để tiêu diệt chúng.
Thành ra không phải là một sự tình cờ khi trên phương diện quốc tế Satline, Mao
Trạch Đông, Hồ Chí Minh, Kim Nhật Thành. v.v. . Tất cả những tên tuổi này đều
giống hệt nhau về các phương diện nói láo, nuốt lời hứa, lưu manh, gian ác, giết
ngươi không gớm tay.
Có một điều Lenine không tiên liệu được khi nghĩ răng những giá trị cách mạng đó
chỉ đem ra sử dụng để chống lại kẻ thù giai cấp. Khi được cấy loại (sinh tử phù)
này vào đầu, nó lặn vào tiềm thức của người Cộng sản và biến thành bản chất con
người anh ta. Khi đem ra sử dụng chúng không còn phân biệt ai là Bạn ai là Thù.
Vì vậy chúng ta mới thấy một nghịch lý lớn trong thế giới Cộng sản là những đồng
chí đã từng sống chết với nhau khi chưa cướp được chính quyền, như Staline và
Trosky, giữa Mao Trạch Đông và Lưu Thiếu Kỳ, họ đã sử dụng tất cả những đòn hiểm
độc để hạ nhau, những đòn mà trước đó họ dùng để đánh kẻ thù giai cấp.
Sự tàn bạo con người trong cái khuôn Cộng sản của Lenine còn mang lại hai hệ quả
mà chính kẻ sáng tạo ra cái khuôn không dự báo nỗi.
Hệ Quả thứ nhất là tất cả tay Cộng sản thuần thành đều bị bệnh hoang tưởng
(Panorania), không nhiều thì ít. Bọn chúng không có khả năng nhìn việc đời
như nó là nó (Như Thị theo đạo Phật) mà nhìn lịch sử, nhìn sự biến chuyển
xã hội dưới lăng kính duy vật sử quan. Bọn điên này thành thật tin tưởng hy sinh
hàng chục triệu người như Mao Trạch Đông đã làm trong "bước tiến nhảy vọt" , hay
vài triệu người trong chính sách chiếu cố Miền Nam của Lê Duẫn, hay hai triệu
người Miên
của Pol Pot thi hành là để mang lại sư tốt đẹp cho những người khác.
Bọn chúng tin như đinh đóng cột là thế giới tư bản sẽ dẫy chết. Ai còn nghi ngờ
điều này, nếu có cơ hội, hỏi Đỗ Mười và nhân vật đang lên Lê Khả Phiêu sẽ biết.
Hệ quả thứ nhì là tất cả tay Cộng sản thuần thành đều bị bệnh ích kỷ quá mức
(Egomania). Căn bệnh quái ác này làm cho người Cộng.sản bất kỳ ở đâu đều có
một lòng tham vô bờ bến. Họ tham quyền và tham tiền. Tay cộng sản nào khi nắm
được quyền bính trong một nước thì sẵn sàng hy sinh quyền lợi quốc gia hạnh phúc
của dân mà họ cai trị cho chiếc ghế độc tôn của đảng, của phe nhóm, và của riêng
cá nhân, dù cho quốc gia có bị tụt hậu ở hạng chót trong cộng đồng quốc tế cũng
không quan hệ . Ở điểm này, thỉnh thoảng các kinh tế gia của Ngân Hàng Thế Giới
và Quỷ Tiền Tệ Quốc Tế hăm doạ cộng sản là nước Việt Nam sẽ bị tụt hậu nếu không
chịu đẩy mạnh cải cách. Họ không biết sự hăm doạ đó, đối với Cộng sản không hề
sợ nước Việt Nam bị tụt hậu nếu ghế họ còn vững vàng là được. Hăm doạ Cộng sản
không khác gì đàn khảy tai trâu, Cộng sản chỉ sợ khi sự tụt hậu dẫn đến chuyện
dân chúng tổng nổi dậy.
Người Cộng sản tham tiền đến cái mức biến tham nhũng thành một định chế quốc gia
để cho tay cộng sản nào cũng có cơ hội hốt của mà khỏi phí sức lao động. Trên
thế giới nhà cầm quyền nào cũng tham nhũng không ít thì nhiều, nhưng khi tham
nhũng trở thành một tai hoạ cho toàn xã hội như bệnh ôn dịch ngày xưa thì chỉ có
thế giới Cộng sản chiếm độc quyền. Chúng ta cứ nhìn Liên Xô, Trung Cộng, Việt
Nam cộng sản sẽ thấy rõ tác hại của bệnh dịch tân thời này. Dân ở các nước này
thường đồng hoá danh từ Cộng Sản với danh tư "tham nhũng'" trong khi trò chuyện
với nhau không có bóng dáng bọn chó săn công an mật vụ lãng đãng gần đó.
Trong phần suy tư giáo chủ tà giáo bắt người Cộng sản phải tin một cách tuyệt
đối ba giáo điều sau đây, nếu đi ra ngoài các giáo điều này thì sự chết sẽ đến
với họ.
1. Thứ Nhất, chủ thuyết Mác-Lê là chân lý. Hồ Chí Minh đã từng nói thuyết
Mác Lê là cẩm nang thần kỳ. Chữ cẩm nang có lẽ được Hồ lấy xong chuyện Tam Quốc
lúc Lưu Bị cầu hôn Giang Tả. Lưu Bị sang Giang Đông cưới vợ là em gái Tôn Quyền,
một kẻ địch chỉ muốn Lưu Bị qua Giang Đông để giết. Trước khi đi, Khổng Minh
giao cho Triệu Tử Long, tướng hộ vệ Lưu Bị một cẩm nang dặn Triệu Tử Long mỗi
khi gặp nguy mở ra xem sẽ có biện pháp thoát nguy. Lưu Bị ở trong hang cọp không
bị cọp ăn lại cưới được vợ nhờ cẩm nang đã tính
toán rất chính xác. Khi Hồ thêm chữ "thần kỳ" sau cho cẩm nang thì ta
biết Hồ tin tưởng vào giá trị của thuyết Mác-Lê đến bực nào.
2-Thứ Nhì, Giáo Chủ tổng bí thư đảng là một con người hoàn thiện. Tất cả
đức tánh tốt đẹp nhất của loài người đều hội tụ trong con người giáo chủ. Trong
đạo giáo nào, bản thân của giáo chủ nào cũng được thần thánh hóa, là một người ở
cõi trên xuống để cứu nhân độ thế. Trong tà giáo vô thần Cộng sản không thể nói
giáo chủ là người Trời sai xuống thế thì thần thánh hoá cách khác. Đối với giáo
đồ Cộng sản, giáo chủ là hiện thân của Chân, Thiện, Mỹ. Một mẫu người hoàn thiện
tuyệt đối. Trong thế giới Cộng sản hình ảnh về Lenine, Staline đã được bọn văn
nô bới trong kho tàng chữ nghĩa những chữ nói lên cái gì tốt đẹp nhất, hoàn
thiện nhất để suy tôn. Nhà thi sĩ thiên tài của Việt Nam về mặt bợ đít là Tố Hữu
cho ra đời những vần thơ ngu ngốc góp phần với những văn nô khác trong thế giới
Cộng sản để thần thánh hóa hai giáo chủ nói trên.
Trong tà giáo Cộng sản, giáo chủ thứ nhất là Marx, đời thứ nhì là Lenine, đời
thứ ba là Staline, tiếp theo là các tổng bí thư kế tiếp của đảng cộng sản Liên
Xô.
Hiện tượng thần thánh hoá cũng diễn ra cục bộ tại mỗi quốc gia mà cộng sản cầm
quyền. Mỗi người cầm đầu một đảng cộng sản địa phương đều được tôn lên thành bực
thánh sống như Mao Trạch Đông, Kim Nhứt Thành, Hồ Chí Minh.
3-Thứ Ba, Đảng là một sáng tạo hoàn thiện. Đảng viên có thể trật, tất cả
đảng viên có thể trật nhưng khi những con người có khuyết tật họp lại thành đảng
thì đảng lúc nào cũng đúng. Năm 1956 , Võ Nguyên Giáp đứng ra xin lỗi nhân dân
vì đảng viên thi hành lệch lạc ý muốn của Đảng trong cải cách ruộng đất, bản
thân Đảng thì không làm bậy bao giờ. Gần đây nhất khi dân Thái Bình bị ức hiếp
bị bốc lột quá nặng qua chánh sách sưu cao thuế nặng nên nhất tề đứng lên dành
quyền sống, phát ngôn viên nhà nước xác nhận có nhân dân nỗi dậy, có áp bức bóc
lột, nhưng đó là lỗi của đảng viên cấp dưới. Người phát ngôn viên này không nói
thêm nhưng ai cũng hiểu là bản thân Đảng, một thực thể hoàn thiện thì không hề
có lỗi trong vụ này !
Chúng tôi đã trình bày một biến cố cũng là một thảm hoạ cho loài nguời khi xuất
hiện một mẫu con người mới gọi là người Cộng sản vào đầu thế kỷ 20. Những con
người với sự tin tưởng mù quáng, bị mất đi phần suy tư trong tâm thức, được
trang bị những giá trị đạo đức cách mạng theo kiểu Cộng sản bị bệnh hoang tưởng
hợp thành cái thế giới điên loạn, trong đó có những giá trị bình thường phổ cập
của loài người đã thoát ta khỏi thời kỳ mong muội đều bị đảo ngược hết. Người
Cộng sản cho thế giới điên loạn đó là thiên đàng vì họ hưởng đủ thứ lợi lộc.
trong đó. Người không cộng sản gọi thế giới quái đản đó là thế giới đảo ngược
(le monde à l'envers), yêu nước là bán nước, liêm khiết là tham nhũng, tự do là
nô lệ, chống bốc lột là bốc lột thẳng tay v.v...
Từ năm 1975 đến nay ở Miền Nam có một câu nói lên hết ý nghĩa của thế giới đảo
ngược: "Nói vậy mà không phải vậy."
Chúng ta hãy nhìn số phận của nước Việt Nam sau khi xuất hiện tà giáo Cộng sản
tại Nga.
Hồ Chí Minh, Trần Phú, Lê Hồng Phong là ba con Zombi Cộng sản đầu tiên được đúc
khuôn tại Liên Xô. Khi ra khỏi khuôn đúc, họ trở thành người mới, về mặt tâm
thức họ không còn là người Việt Nam nữa. Họ chỉ biết có một tổ quốc Liên Xô. Tất
cả việc làm của họ đều phục vụ cho Liên Xô - trong con mắt họ là cái nôi của
cách mạng dẫn đến thiên đường Cộng sản trên thế giới.
Khi về nước họ tạo ra cái khuôn đúc giống hệt như cái khuôn kiểu mẫu ở Liên Xô
để tạo nên một lớp người cộng sản tại địa phương mang tên là Trường Chinh, Lê
Duẫn, Võ Nguyên Giáp, Phạm Văn Đồng, Lê Đức Thọ, Phạm Hùng, Trần Quốc Hoàn.v.v..
Thế hệ người Cộng sản này sau khi qua khuôn đúc cũng trở thành người Cộng sản
như các bậc đàn anh nghĩa là tay nào cũng nói láo, thất hứa, lưu manh, gian ác,
bá đạo. Tay nào cũng bị bệnh hoang tưởng, cùng tham lam vô độ, tất cả đều giống
hệt như nhau.
Đám Zombi mới tạo này đã thành công chiếm được nước Việt Nam, đặt đất nước này
dưới một chế độ thuộc địa mới mang tên Cộng Hòa Xã Hội Chủ Nghĩa Việt Nam. Tuy
mở miệng tự xưng người yêu nước, chúng là quan lại của Thiên Triều mới đóng đô
tại điện Cẩm Linh. Thiên triều gởi chúng đến Việt Nam để cai trị và chúng không
tiếc lời nói lên lòng trung thành tính cách bầy tôi mỗi khi có dịp.
Năm 1992, một tai hoạ xảy ra trong thế giới Cộng sản, Thiên Triều Liên Xô bị sụp
đổ. Những con Zombi Việt Nam không còn được phù thuỷ hướng dẫn nữa phải tự xoay
xở để sống còn. Hoàn cảnh khách quan đã biến đám Cộng sản Việt Nam thành một tổ
chức Mafia. Đám âm binh Cộng sản tuy miệng vẫn còn nói Xã Hội Chủ Nghĩa trong
thực tế không còn tin tưởng đến thiên đường Cộng sản hay là những trò bịp khác
của mẫu quốc Liên Xô. Mối lo nghĩ chính của.chúng là làm thế nào để giữ chiếc
ghế cai trị độc tôn của người Cộng sản càng lâu càng tốt để hốt hết tài sản của
dân tộc Việt Nam. Để mưu sanh thoát hiểm, người Cộng sản đưa ra chánh sách đổi
mới trong đó kinh tế đã được thả lỏng phần nào để cho dân được tự do mưu sinh
hầu tháo bớt ngòi nỗ tổng nỗi dậy đã bắt đầu trở thành nỗi ám ảnh của Cộng sản.
Về mặt chính trị đảng Cộng sản vẫn nắm chặt, chỉ cho dân hưởng tự do chính trị
trên mặt giấy xuyên qua bản hiến pháp mới năm 1992.
Chúng ta thấy cái khuôn đúc người mới của Cộng sản là một cái khuôn máy tôi tân.
Tuy nhiên máy là sản phẩm của con người với tánh chất bất toàn nên máy nào cũng
chứa trong các cơ phận vận hành một vài khuyết tật.
Trên cấp thế giới, khuyết tật trong cái khuôn đúc người là bộ phận trung thành.
Với đa số là nó chạy đều đặn nhưng khi gặp những cá nhân như Mao Trạch Dông
Tito, thì bộ phận trung thành bị trục trặc. Hai tay nói trên tuy có đủ đức tánh
trong "đạo đức cách mạng Cộng sản" nhưng không còn trung thành với giáo chủ và
giáo ngũ trong điện Cẩm Linh. Chúng biến thành hai tên phản đồ có tên tuổi, vai
vế lớn trong tà giáo.
Tại Việt Nam, cái khuôn do Hồ Chí Minh và đồng bọn mang về đã làm việc tốt đẹp
với đa số. Nhưng với một thiểu số, cái khuôn máy đúc này lại gặp trục trặc. Vì
thế trong thế giới Cộng sản tại Việt Nam có hai hạng Cộng sản không thuần thành,
có thể gọi là Cộng sản phản tĩnh .
Hạng thứ nhất, những người theo cộng sản bị hấp dẫn bởi ý tưởng tốt đẹp
bình đẳng xã hội có lẽ được hướng dẫn bởi ý tưởng khắc tinh của cái xấu, nên tâm
thức của hạng người này tự động đề kháng với cái khuôn đúc (chủ thuyết Mác-Lê).
Hậu quả là có một số hết sức ít người Cộng sản Việt Nam còn giữ được chất người
Việt Nam không trở thành Zombi.
Hạng thứ nhì, do những cơ duyên nào đó (hiểu theo nhà Phật) người Cộng
sản như bừng tĩnh sau một cơn ác mộng. Trước kia họ là người Cộng sản thuần
thành, đầy dẫy tội lỗi. Nay họ thấy tất cả sai.lầm của Mác-Lê, cũng như sai lầm
khi dấn thân vào thế giới Cộng sản. Những người may mắn này trở lại thành người
Việt Nam bình thường.
Cũng nên kể thêm một chủng loại Cộng sản khác xuất hiện rất nhiều khi đổi mới.
Đám này vào đảng để "theo đóm ăn tàn". Họ không tin tưởng vào thánh kinh Mác-Lê.
Họ không bị cái khuôn đúc triệt tiêu cá tính. Tuy nhiên vì gần mực thì đen, đám
này sống và hoạt động với đám Cộng sản thuần thành nên bị lây không ít thì nhiều
những đức lánh của đạo đức cách mạng kiểu Cộng sản. Tánh xấu phổ biến trong đám
cộng sản cơ hội này là nói láo và lưu manh.
NHỮNG KHÁC BIỆT GIỮA NGƯỜI CỘNG SẢN VÀ NGƯỜI VIỆT
NAM
Trên thế giới có nhiều trường hợp, người có ngoại hình giống nhau, nói chung một
thứ tiếng nhưng lại thuộc về những dân tộc khác biệt như người Pháp và người Bỉ,
người Đức và người Áo.
Có bốn điểm lớn phân biệt người giữa dân tộc này với một dân tộc khác. Đó là Tổ
Quốc, Lịch Sử, Khát Vọng chung của cộng đồng dân tộc và Văn Hoá. Chúng ta lần
lượt khảo sát xem người Cộng Sản gọi là người Việt Nam có khác nhau với
người Việt trong bốn điểm trên hay không.
1- Tổ Quốc
Những người thuộc dân tộc Việt Nam đều xem Tổ Quốc của mình là cái quốc gia đầu
tiên với danh xưng Văn Lang do cụ Tổ Hùng Vương thiết lập trong thế kỷ thứ 7
trước Công Nguyên bằng cách quy tụ lại tất cả các bộ tộc Lạc Việt sống trong lưu
vực sông Hồng Hà. Chữ Tổ Quốc là một tình cảm thiêng liêng không thế lực
ngoại lai nào xóa bỏ được. Hồ Chí Minh và đồng bọn xem Liên Xô là Tổ Quốc của
chúng. Điều này được cáo Hồ xác nhận trong chúc thư trước khi chết. Con người
trước khi chết thường nói hết những gì dấu ẩn ở trong nội tâm. Họ Hồ nói rằng
khi lìa đời sẽ đi tìm cụ Mác cụ Lê chứ không đi tìm Quốc Tổ Hùng Vương. Ai cũng
có quyền chọn lựa Tổ Quốc nhưng khi Hồ và đàn em lựa chọn Liên Xô làm Tổ Quốc
thì họ phải có một chút tư cách nào còn sót lại trong con người, đừng giả vờ
đánh lận con đen nói Việt Nam là Tổ Quốc của mình. Vả lại mới ngày hôm qua đây
khẩu hiệu "Yêu nước là yêu Xã Hội Chủ Nghĩa" còn bắt dân, bắt trẻ con học
tập dài dài thì người Việt Nam và người Cộng sản Việt Nam là dân của hai Tổ Quốc
khác biệt nhau không gì để bàn nữa.
2- Lịch Sử
Người cùng dân tộc đều chấp nhận có một lịch sử chung. Người Việt nào cũng đều
thấy lòng mình xót xa đau khổ khi đọc sử đến đoạn hai Bà Trưng tự trầm xuống Hát
Giang. Ngươi Việt nào cũng thấy lòng mình tràn ngập một niềm hãnh diện khó tả
khi nhạc trổi bài Chi Lăng hay Trên Sông Bạch Đằng. Người Việt tôn thờ Trần Hưng
Đạo, Lê Lợi, Quang Trung v.v.. .
Người CSVN nhìn lịch sử nước ta một cách khác vì họ là người ngoại quốc. Họ gọi
Đức Lê Lợi là một địa chủ nghĩa là một phần tử "xấu' phải đem ra đấu tố. Họ xem
vua Quang Trung là lãnh tụ nông dân phản bội Cách Mạng nông dân chỉ vì Ngài lên
ngôi hoàng đế. Nếu lúc đó Ngài lấy danh hiệu là Tổng Bí Thư của đảng Tây Sơn
chắc người Cộng sản không tiếc lời ca tụng!
Đức Trần Hưng Đạo được dân ta tôn thờ là anh hùng dân tộc. Khi nói đến Ngài,
người Việt thường để cho Đức trước tên Ngài để tỏ lòng tôn kính. Chỉ có một
người dám gọi bác - bác, anh - anh với Ngài là Hồ Chí Minh. Điều đó xúc phạm
người Việt, nhưng biết làm sao hơn vì cáo Hồ là người ngoại quốc mới dám nói
phạm thượng như thế
Một vài cử chỉ nhỏ nói lên một cách không chối cãi được người CSVN không có
chung một lịch sử với người Việt. Tại Sài Gòn có đại lộ Chi Lăng nối liền chợ Bà
Chiểu với chợ Phú Nhuận. Chi Lăng và Bạch Đằng là hai trong những chiến công lẫy
lừng nhất của dân tộc Việt. Khi chiếm được Sài Gòn, CSVN đã đổi tên Chi Lăng
thành Phan Đăng Lưu một tên Cộng sản không hề có chút công lao nào với dân tộc
Việt Nam và tên Bến Bạch Đằng thành đường Tôn Đức Thắng, một tên Việt gian Miền
Nam bán mình cho Cộng sản.
Sự đổi tên này nói lên một cách vững chắc là lịch sử Việt Nam không dính dấp đến
người Cộng sản tại Việt Nam vì họ là người ngoại quốc.
3-Khát Vọng Dân Tộc
Mỗi dân tộc có một khát vọng chung cho cộng đồng dân tộc đó. Ví dụ với người
Hoa, nếu không bị gán ép là xuyên tạc, thì khát vọng dân tộc họ là thực hiện
mộng Đại Hán. Việt Nam vì hoàn cảnh địa lý chính trị, luôn luôn bị ám ảnh bởi
Bắc phương xâm lược nên khát vọng của cộng đồn dân tộc Việt là sống an cư lạc
nghiệp trong một nước độc lập.
Người Cộng sản có khát vọng cao, có lẽ vì quá cao nên trở thành không tưởng, là
thực hiện xã hội Cộng sản một thiên đường hạ giới. Khát vọng này hoàn toàn xa lạ
với người Việt.
4- Văn Hoá
Nếu định nghĩa văn hoá thì quá bao la và mỗi học giả nói một cách khác nên chúng
tôi thu hẹp nghĩa văn hoá của một dân tộc vào một lối sống, một lối suy nghĩ,
một lối hành động. Hiểu như thế thì trong văn hóa có Học Thuật, Phong Tục, Tập
Quán, Tiếng Nói.
Cốt tuỷ của văn hoá Việt là TÌNH THUƠNG. Từ trong liên hệ Gia Đình, Xã Ấp, Làng
Xóm đến liên hệ giữa những thành viện trong cộng đồng xã hội. Căn bản đối xử với
nhau trên tình thương đã giúp cho gia đình Việt được bền vững hơn gia đình các
dân tộc khác, sự sống trong xã ấp và trong xã hội được hài hòa.
Cốt tuỷ của nền văn hóa mới của Cộng sản, gọi là văn hóa Xã Hội Chủ Nghĩa là HẬN
THÙ và TƯ LỢI trong gia đình, trong làng xóm, trong xã hội. Cảnh đổ vỡ đến mức
báo động. Sự giao thiệp giữa con người với con người tại làng, xóm, trong xã hội
được đặt trên phương châm "thằng nào ngu mới sống không lưu manh". Một xã
hội điên loạn trong đó có cảnh người bóc lột người đã tiến bộ thêm một bước để
thành người ăn thịt người.
Về mặt ngôn ngữ thì người Cộng sản nói một thứ tiếng Việt gọi là "cải tiến" khác
hẳn tiếng Việt bình thường. Hãy nghe hai chị công an nói chuyện với nhau về thịt
mua ở cửa hàng quốc doanh trích trong quyển phiếm luận "Giầy sô, nói phét và
đàn bà" của Huỳnh Văn Phú:
"Nếu đi từ 'trực quan sinh động' đến 'tư duy trừu tượng' thì tôi nói với đồng
chí là "thị trường thịt' hôm nay 'căng' lắm, nhưng giữa tôi và đồng chí có mối
'quan hệ hữu cơ' với nhau nên tôi sẽ để lại cho đồng chí một nửa số thịt hiện có
với giá 'hữu nghị' thôi."
Chúng tôi không có ý kiến gì để phê bình ngôn ngữ của nước khác khi nghe hai nữ
cán bộ công an Cộng sản nói chuyện với nhau bằng tiếng nước họ !
Bốn điểm trình bày ở trên là những điểm chung của mọi người dân trong cộng đồng
dân tộc Việt. Những điểm này là những chỗ khác nhau giữa dân tộc này với dân tộc
khác.
HÀNH ĐỘNG CỦA NGƯỜI CỘNG SẢN KHI CAI TRỊ NƯỚC VIỆT
NAM
Người Cộng sản còn để lộ rõ tư cách ngoại quốc trong cung cách họ cai trị nước
Việt Nam khi họ bất chấp quyền lợi quốc gia của dân Việt. Lúc nào người Cộng sản
Việt Nam cũng ưu tiên lo cho quyền lợi của hai mẫu quốc Liên Xô và Trung Cộng
khi chúng ta nhìn một vài hành động sau đây:
l- Cải cách ruộng đất ở Miền Bắc thời gian 1953-1956
Đây là một tội ác kinh tởm. Suốt thời kỳ độc lập, trong lịch sử Việt Nam, chưa
bao giờ có một ông vua nào dám thi hành điều đó dầu là một vua bạo ngược. Tội ác
này chỉ diễn ra khi thủ phạm là người ngoại quốc như vụ thảm sát hàng vạn sĩ
quan Ba Lan tù binh tại Katyn, một khu rừng hẻo lánh trong xứ Biélorussie do
Staline ra lệnh và vụ giết
người tù Do Thái đại quy mô bằng lò hơi ngạt trong trại tù của Đức
Quốc Xã do lệnh cua Hitler.
Thủ phạm cải cách ruộng đất là cáo già Hồ Chí Minh mặc dù có hai tay cộng sản có
tiếng tăm đã thoát khỏi sự kiềm tỏa của Cộng sản là Bùi Tín và Vũ Thư Hiên cố
bào chữa cho Hồ là y ta bị các cố vấn Tàu áp lực quá mạnh, không cãi lại được.
Bùi Tín còn nói Hồ phải thi hành nhưng không mặn mà cho lắm. Bênh như thế chỉ
xác nhận tư cách không phải là người Việt Nam của Hồ. Cáo Hồ là chủ tịch một
nước, không lẽ khi các cố vấn Thiên Triều bảo Hồ ăn cứt gà Hồ cũng phải nhắm mắt
ăn thử dù không mặn mà lắm !
Thay vì cố chạy tội cho Hồ, hai tay trên nên tôn trọng sự trung thực của người
cầm bút. Có lẽ viết như thế này sát với thực tế hơn:
"Hồ không thích chuyện cải cách ruộng đất của ông Mao, một chuyện làm ngu xuẩn
mất lòng dân nhưng vì nạn nhân là người Việt chớ không phải đồng bào của Hồ nên
y ta cứ để cho Trường Chinh và Hồ Việt Thắng làm để vừa lòng Thiên Triều. Sinh
mạng của mười vạn dân bị giết oan là ba cái lẻ tẻ nhăm nhò gì, nếu nhờ hành động
tội ác đó mà Thiên Triều thấy được sự ngoan ngoãn gương mẫu của một quan thái
thú trấn nhậm một phiên bang ở xa ! "
2- Khi Hạm Đội Của Trung Cộng Tấn Công Hoàng Sa
Khi hạm đội to lớn của Trung Cộng đè bẹp hạm dội nhỏ bé của Việt Nam Cộng Hòa
không một lời phản đối. Mà phản đối sao được khi Bộ Ngoại Giao Bắc Việt đã long
trọng xác nhận bằng văn thư Hoàng Sa là lãnh thổ của Thiên Triều Trung Cộng năm
1958. Trên thế giới chưa hề có một chánh phủ quốc gia nào dám tự nhiên xác nhận
một phần lãnh thổ của quốc gia mình là của ngoại quốc. Nhật Bản thua trận trong
Đệ Nhị thế chiến bị quân Nga chiếm bốn hòn đảo nhỏ ở miền Bắc. Dù thua trận
nhưng Nhật Bản đến ngày nay, nửa thế kỷ sau Nhật Bản cứ khăng khăng đòi lại bốn
đảo nhỏ này.
Như thế phải hiểu thế nào về thái độ của Cộng sản Việt Nam năm 1958? Có phải đây
là người ngoại quốc cai trị Việt Nam nên cắt đất của nước bị trị dâng cho Thiên
triều Trung Quốc để lấy lòng không?
3- Người CS Đã Lồng Lộn Hay Giả Vờ Lồng Lộn
Nói rằng đất nước bị quân Mỹ xâm lược vì sự hiện diện của nửa triệu quân Mỹ và
Đồng Minh ở Miền Nam chống lại mưu toan xâm lược của Miền Bắc. Nhưng người Cộng
sản giải thích thế nào khi thông tấn xã Kyodo của Nhật (báo Người Việt ở Quận
Cam, Califumia, ngày thứ hai 1-4-96) loan tin "phát ngôn viện của Bộ Ngoại
Giao Trung Quốc xác nhận nước này đã gởi quân sang giúp Cộng sản Việt Nam. Trong
thời kỳ chiến tranh Việt Nam, theo lời yêu cầu của chánh phủ Cộng sản Miền Bắc,
Trung Quốc,đã gởi một đạo quân ba trăm hai chục ngàn (320 000) sang Việt Nam
trong giai đoạn 1965-1968"
Chúng ta nên lưu ý câu "theo lời yêu cầu của nhà nước Cộng sản".
Chuyện này chỉ xảy ra
một lần duy nhất trong lịch sử Việt Nam khi Lê Chiêu Thống yêu cầu
quân Tàu sang Việt Nam để giúp ông ta lấy lại ngai vàng trong tay Tây Sơn !
4- Năm 1981, Phạm Văn Đồng Tiếp Ký Giả Mỹ
Khi ký giả Stanley Kamow đến Hà Nội được Đồng tiếp trong lúc bài học mà Trung
Cộng dạy đàn em còn nóng hổi, Đồng không dằn được bực tức đã tiết lộ: "Hắn
(chỉ Mao Trạch Đông) luôn luôn sẵn sàng đánh đến người Việt cuối cùng"
(Stanley Kamow - Viet Nam a history - The Viking Press New York 1983 - trang
329).
Nếu là người Việt cai trị người Việt, khi biết một đại cường xem toàn dân Việt
Nam chỉ là những cơn chốt, nếu cần thí hết để phục vụ cho cường quốc đó, có nhà
lãnh đạo Việt Nam nào dám làm một chuyện tầy trời như thế để gây chiến với
anh em trong nhà ?
Vì là người ngoại quốc nên Hồ Chí Minh và tập đoàn lãnh đạo đã huy động hết nhân
tài vật lực của Miền Bắc để đánh cho đến người Việt cuối cùng. Hồ còn nói huỵch
toẹt là còn đánh đến đời con đời cháu.
Nếu xem Mỹ là kẻ thù bất cộng đái thiên bắt dân Việt hy sinh qua sức to lớn về
người và của để đánh cho Mỹ cút bằng mọi giá, sao lại lạy lục nó trở lại trong
thập niên 90?
Một vài chuyện phản bội quốc gia Việt Nam kể trên xác nhận một lần nữa, người
Cộng sản Việt Nam không phải là người Việt Nam dầu họ mồm loa mép dãi cãi chối
sau khi gió đã xoay chiều, Cộng sản không còn mạnh thế nữa, họ phải cố tình lấy
lòng dân tộc Việt Nam.
NGƯỜI CỘNG SẢN VIỆT NAM KHÔNG PHẢI LÀ NGƯỜI VIỆT
NAM
MANG LẠI HẬU QUẢ GÌ
Trong lịch sử Việt Nam, cách mạng là một biến cố long trời lỡ đất mang lại sự
đổi đời có một nét độc đáo.
Suốt thời gian độc lập, người Việt cai trị người Việt, dân Việt không hề làm
cách mạng để lật đổ một tay cầm quyền ác ôn và bè lũ để thay thế chế độ cũ bằng
một chế độ mới cho người dân sống dễ chịu hơn. Có nỗi dậy nhưng đó là hành động
của cá nhân bất mãn, những nhóm người bất mãn. Chưa hề có toàn dân nỗi dậy. Cuộc
cách mạng chỉ xảy ra khi nước Việt Nam bị ngoại quốc đô hộ, bị thiết lập một chế
độ thực dân cai trị. Nhưng đây là cách mạng giải phóng dân tộc, nói gọn là Cách
Mạng Dân Tộc. Cuộc cách mạng này là một tiến trình đấu tranh lâu dài, dưới mọi
hình thức, khởi phát khi chế độ thực dân được thiết lập và chỉ chấm dứt khi chế
độ thực dân bị dẹp bỏ.
Cách Mạng Dân Tộc có một số nét đặc biệt không có trong những cuộc cách mạng
thông thường.
1 Thứ Nhất. Đây là cuộc chiến của toàn dân, đứng hơn là của đa số dân còn
ý thức chất Việt trong huyết quản, trong tâm thức. Họ lao vào chiến đấu vì bị
thúc đẩy bởi một cái lực bí mật trong nội tâm. Cái lực đó, chúng tôi gọi là hồn
nước trong tài liệu "Cách Mạng Dân Tộc" là sự thúc hối của bản năng sinh tồn của
cộng đồng dân tộc. Họ lao vào cuộc chiến đấu trong cảnh châu chấu đá voi. Chúng
ta nên nhớ làm Cách Mạng trong một chế độ thực dân thực dân nhà Minh, thực dân
Pháp, thực dân Cộng sản, không phải là một trò đùa. Khi bị bắt hay thất bại là
bản án tử hình hay lưu đày dài hạn hay biệt xứ trong các trại tù khắc nghiệt.
Trong giai đoạn đầu, tương quan lực lượng còn thiên về thực dân, người làm cách
mạng mười lần như một đều thất bại. Nhưng dù thế nào họ vẫn nỗi dậy. Đặc tính
của Cách Mạng Dân Tộc nằm trong điểm "dầu thua cũng đánh". Câu nói của liệt sĩ
Nguyễn Thái Học xác định rõ ràng đặc trình này: "không thành công thì thành
nhân". Nói như thế là cầm chắc cái thua trước khi khởi nghĩa nhưng không
phải vì thấy thua mà không đánh.
Từ 1975 đến nay thế giới bên ngoài và đồng bào hải ngoại không hề biết là Cộng
sản đã xử tử trong bí mật, đã tra tấn thành phế nhân không biết bao nhiêu nhà
Cách Mạng Dân Tộc.
Trong năm 1980, những liệt sĩ này có khi là thanh niên hay thiếu nữ chưa đến 20
tuổi. Điều đó có nghĩa là sau ngày 30-4-75, những thiếu niên anh hùng này là trẻ
con không có ân oán giang hồ với Cộng sản. Họ lao vào chiến đấu chỉ vì họ thấy
Cộng san quá ác, Cộng sản là kẻ thù không để cho dân được quyền sống bình
thường. Khi quy tụ được 10 hay 15 người họ tổ chức thành một tổ chức kháng chiến
mang tên Phục Quốc để đi rải truyền đơn liệng lựu đạn v.v. .
Vì họ không có kinh nghiệm chiến đấu hay tổ chức nên hầu hết các tổ chức này bị
Cộng sản phá vỡ. Điểm đặc biệt trong cảnh châu châu đá voi như thế, hết lớp này
đến lớp khác lao vào chiến dấu không cần biết ngày mai ra sao. Chính cuộc chiến
đấu với tánh chất "thua cũng đánh" đã nói lên rõ ràng đây là tiến trình của Cách
Mạng Dân Tộc đang khởi động.
2- Thứ Nhì. Cuộc chiến đấu trong Cách Mạng Dân Tộc diễn ra dưới mọi hình
thức. Không bao giờ ngừng nghỉ, không bỏ cuộc, chiến đấu cho đến khi nào Cách
Mạng thành công
Khi kể tên cách liệt sĩ Cách Mạng Dân Tộc: Nguyễn Trung Trực Trương Công Định,
Thiên Hộ Dương, Quản Cơ Thành, Phan Tôn, Phan Liêm, Phan Đình Phùng Đinh Công
Tráng, Nguyễn Thiên Thuật, Hoàng Hoa Thám, Phạm Hồng Thái, Phan Châu Trinh, Phan
Bội Châu, Trần Cao Vân, Trần Quý Cáp, Nguyễn An Ninh, Nguyễn Thái Học, Trương Tử
Anh, Lý Đông A, Huỳnh Phú Sổ, Nguyễn Văn Sâm, Hồ Văn Ngà, Trần Văn Bá, Hồ Thái
Bạch, Trần Quốc Hoàng, Hoàng Thụy Mai, Nguyễn Trung Tuấn và hàng ngàn liệt sĩ
khác, chúng ta thấy cóo một sự tiếp nối không dứt đoạn của những thế hệ chiến sĩ
Cách Mạng Dân Tộc. Đối với thế hệ Nguyễn Trung Trực cũng như thế hệ Nguyễn Thái
Học rồi đến thế hệ Trần Văn Bá, đối tượng tranh đấu luôn luôn là chế độ thực dân
và bọn cầm quyền ngoại quốc đã cướp đi độc lập dân tộc. Tất cả đều tranh đấâu
cho dân tộc Việt Nam chớ không phải cho một phe nhóm nào dầu họ mang nhiều hãnh
diện khác nhau.
CSVN như đã trình ở trên, là người ngoại quốc đến đất nước Việt Nam để cướp đi
độc lập của dân tộc Việt và áp đặt lên đầu họ một chế độ thực dân, khắc nghiệt
hơn thực dân Pháp vì mang cùng một lúc ba tánh chất: áp bức, bóc lột,
và bất công.
Chế độ thực dân mới này đã tự động mắc vào chu kỳ
oan nghiệt "Nổi dậy - Đàn áp - Nổi dậy" mà Cách Mạng Dân Tộc Việt Nam
đã trói buộc thực dân.
Dân tộc Việt Nam đã khổ quá rồi, cảnh tức nước vỡ bờ thế nào cũng xảy ra mà
những vụ như Kim Nổ, Thái Bình, Xuân Lộc chỉ là sự khơi ngòi Cách Mang.
Bọn thực dân Cộng sản hiện bị giới hạn trong hai khả năng hành động và chỉ có
hai thôi trước viễn cảnh Cách Mạng bùng nổ :
- Khả năng một: phải giết cho hết người Việt mới hết nguy cơ Tổng Nổi Dậy,
- Khả năng hai: phải thực tâm đem tất cả quyền bính trao lại tận tay cho đại
diện dân tộc Việt Nam.
Nếu có hành động như thế mới không có Tổng Nổi Dậy và người Cộng sản mới có thể
bảo tồn được sinh mạng và tài sản, của chìm của nổi cướp được của dân Việt Nam.
Nếu quen trò cũ: mập mờ, lừa bịp, lưu manh, đánh lận con đen bằng cách trả độc
lập nửa vời hoặc trao quyền cho người thuộc phe chúng núp dưới mặt nạ mới thì
Cách Mạng Dân Tộc vẫn tiếp tục tiến trình cho đến khi đạt được mục tiêu.
Trong quá khứ không có thế lực ngoại quốc nào, dầu đó là thế lực của nhà Minh
trong thời cường thịnh và lại sát nách nước Việt, cũng không thế ngăn cản Cách
Mạng Dân Tộc đập tan chế độ thực dân của chúng tại Việt Nam.
Thời hiện dại, không có thế lực ngoại bang nào dầu là Cộng sản Tàu hay Tư bản Mỹ
có thể có thể ngăn chặn Cách Mạng Dân Tộc bùng nổ tại Việt Nam vì người Việt bị
áp bức và bóc lột quá nhiều và quá lâu rồi.
Đây là chân lý mà Bạn và Thù của dân tộc Việt Nam cần hiểu rõ.
Việt
Nam Cộng Hòa Muôn Năm
View and sign Guestbook
Xin vui lòng lưu bút tưởng niệm đến các vị Anh Hùng của QLVNCH
và các đồng bào nạn nhân
đã bị cộng sản sát hại tại Huế.
Please visit and sign our
guestbook to
honor the ARVN Heoes
and to remember the thousands of
civilians murdered in Hue City in 1968.
since
Memorial Day 1999
|